- Trang chủ >
- Trạng nguyên
Vũ Phạm Hàm là vị tam nguyên Thám hoa cuối cùng của chế độ thi cử nhà Nguyễn. Ông để lại rất nhiều tác phẩm chữ Hán và nhiều tập văn thơ phú viết bằng chữ Nôm.
Thời Pháp đô hộ, vài năm một lần các quan chức Pháp sang cai trị ở ta đều phải dự một lần khảo hạch tiếng Việt, ai qua được thì được đặc cách lên lương sớm. Cái mẹo này khuyến khích người ta chịu khó học, nhiều ông đâm thua thiệt nhưng lắm ông mừng vì lương có cơ lên vùn vụt.
Ngày xưa, cha của Trần Minh là Trần Bắc và mẹ là Trần Mẫu ( thiên hạ gọi Trần Mẫu có nghĩa là mẹ của hàn sĩ Trần Minh. Trẩn Minh là con ruột của bà ta) .
Ngày xưa có ông quan lấy một nàng hầu (người thứ 3 sau vợ lẽ) rất đẹp. Nhưng người vợ cả lại có tính hay ghen, ông quan phải đưa tiền bạc cho người nàng hầu về đi lấy chồng khác.
Ngày xưa nhà vua sai quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi khắp nơi mọi miền đất nước, đến đâu ông cũng ra những câu đố oái oăm để hỏi mọi người, nhưng tuy mất nhiều công mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Giáp Hải tự là Tiềm Phu, hiệu Tiết Trai, tục gọi là Trạng Kế. Ông quê làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Năm 23 tuổi, Giáp Hải đỗ Trạng nguyên năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ chín (1538) đời Mạc Thái Tông. Dưới triều Mạc, ông giữ chức Tuyên phủ đồng tri, thăng Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông các đại học sĩ Nhập thị kinh diên, thăng hàm Thiếu bảo tước Sách quốc công, trông coi cả lục bộ.
Tại làng Trảo Nha, tỉnh Hà Tĩnh, xưa kia có bà Châu Thị Phú là người hâm mộ đạo Phật.
Bà lên núi, tìm vị hòa thượng nọ, xin thí phát quy y. Hòa thượng bảo:
Giáp Hải là một nho sĩ nghèo và rất chăm học. Ngày nọ, qua đò gặp lúc vợ chồng người chèo đò bắt được một con rùa định đem làm thịt.
Ông Trạng Trình có tên thật là Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, quê ở làng Trung Am tỉnh Hải Dương.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với danh tiếng về tài tiên tri và những lời sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử không ai sánh bằng.
Mạc Đĩnh Chi tự là Tiết Phu, là nho sĩ Việt thời Trần, ông không những là trạng nguyên của Đại Việt mà còn được phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" khi sang sứ Trung Hoa thời nhà Nguyên.
Trong thời gian lưu lại triều đình nhà Nguyên, Mạc Đĩnh Chi thỉnh thoảng cũng đi thăm viếng các vị quan lại, hoặc họ tự tìm đến công quán để thăm hỏi lại.
Tục truyền, vào thời tiền Lý ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) có nhà họ Tống tên là Thiện Công dòng dõi thi thư, nghèo túng nhưng rất khoan hòa nhân đức, cầu tự mãi mới sinh được một cậu con trai khôi ngô, đặt tên là Tống Trân.
Chuyện kể về Nguyễn Quán Nho (1637 - 1708) quê ở làng Văn Hà, huyện Thụy Nguyên, nay là làng Vạn Hà, xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa - Thanh Hóa. Ông mồ côi cha từ nhỏ, nhà lại nghèo, bà mẹ ở vậy nuôi con mặc dù khi ấy tuổi hãy còn khá trẻ.
Truyền thuyết còn lưu lại sự tích về trạng nguyên Giáp Hải như một câu truyện thần thánh, từ việc được sinh ra đến việc gặp con gái vua Thủy Tề, kết thành phu thê.
Lê Trọng Thứ hồi trẻ có tên là Lê Phú Thứ, quê ở làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hương, trấn Sơn Nam (nay là xã Duyên Hà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Lương Hữu Khánh sống vào khoảng thế kỷ 16, là Thượng thư Bộ Binh (có sách chép khác là Thượng thư Bộ Lễ), thời Lê Trung hưng, tước Đạt Quận Công, là nhà thơ. Ông sinh khoảng năm 1520, là con trai út của Lương Đắc Bằng, quê ở làng Hội Triều huyện Hoằng Hoá - Thanh Hoá, lên 10 tuổi đã nổi tiếng "thần đồng", còn khi đến tuổi thanh niên lại trở thành một truyền thuyết về tài... ăn khoẻ.
Lê Nại nổi tiếng là thần đồng nhưng cũng nỏi tiếng với tài ăn khỏe của mình, dân gian thường gọi ông là trạng ăn.
Trạng ăn Lê Như Hổ (1511 - 1581), ông người làng Tiên Châu huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Vông, xã Hồng Nam huyện Phù Tiên - Hưng Yên). Đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân sửu niên hiệu Quảng Hoà thứ nhất (1541) đời Mạc Phúc Hải.