Nguyễn Công Trứ một trong những nhân vật kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam, ông là vị quan thanh liêm nổi tiếng với tài trí hơn người nhưng có lối sống tự do và vô cùng ngang tàng, ngạo nghễ.
Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 1/11 năm Mậu Tuất (1788) người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình.
Sống trong cảnh nghèo khổ nhưng ngay từ bé, cậu bé Củng đã nuôi ý tưởng làm nên nghiệp lớn với tuyên bố: "Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông".
Năm 1819, Nguyễn Công Trứ thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan, bấy giờ đã ngoài 30 tuổi. Ông là người văn võ song toàn, làm tới chức Uy Viễn Tướng công Binh bộ Thượng thư nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, hạ tới ba bốn cấp.
Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở trung châu miền Bắc Việt Nam, và lập nhiều chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong Chiến tranh Việt–Xiêm (1841–1845).
Thông minh từ nhỏ
Theo một số giai thoại, ngay từ khi lọt lòng mẹ, Củng đã tỏ ngay sự ngông bướng bằng cách không chịu mở mắt hay khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác dù người nhà đem hết nồi đồng, mâm thau khua gõ liên hồi. Đến khi cả đám người lớn đã mỏi rã rời, lắc đầu thì cậu mới cất tiếng khóc đầu tiên oang oang như tiếng chuông đồng.
Thuở nhỏ, cậu bé Củng đã tỏ ra là cậu học trò học rất giỏi, thông minh lại tinh nghịch, lém lỉnh, nổi tiếng "thần đồng". Tài cao trí sắc, đọc rộng nhớ nhiều, những câu đối đáp lỗi lạc của cậu bé Củng gây cho mọi người nỗi kinh ngạc và thú vị.
Khoảng 10 tuổi, Củng theo cha trở về Hà Tĩnh quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung tốt bụng, đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học, trong đám học trò đó có Củng.
Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ra vế đối. Được thầy đồng ý, ông Đồ Trung nói: "Ta có câu đối này, trò nào đối hay và nhanh sẽ được thưởng một quan tiền".
Rồi ông ta chỉ về phía cây đại đứng ngoài vườn, đọc vế đối: "Ngoài vườn cây đại nở hoa đại".
Các học trò ngồi nhìn nhau, mặc dù rất thèm quan tiền nhưng không ai tìm được vế đối lại. Thấy cả lớp im lặng, thầy học lên tiếng giục, chỉ có cậu bé Củng ra vẻ ngập ngừng khó nói. Thầy hỏi: "Trò Củng, sao không đối đi?". Củng khép nép thưa: "Thưa, con sợ bị quở phạt ạ".
Ông chủ nhà khuyến khích ra vẻ rộng lượng: "Trò cứ đối, nếu hay thì ta sẽ thưởng cho, còn nếu có điều gì sơ suất thì ta và thầy cũng không bắt lỗi trò đâu". Được lời, Củng nghiêm chỉnh đứng dậy đọc: "Trong buồng ông Trung ấp bà Trung" ạ.
Vế đối rất chuẩn, "trong" đối với "ngoài", "Đại" đối với "Trung", và "nở" thì đối với "ấp" khiến ông Đồ Trung đỏ mặt im lặng. Thầy trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả và tất nhiên Củng được nhận một quan tiền.
Lúc còn trẻ, Nguyễn Công Trứ là người rất tinh nghịch, thường hay lảng vảng vào các miếu long thần, thổ địa ở làng để chơi đùa, vẽ bậy. Có lần lại bê cả xôi, chuối, rượu, thịt ở bệ thờ về đánh chén, khiến thủ từ cứ nghi hoặc mà chẳng dám kêu ca.
Một buổi tối, Nguyễn Công Trứ lẻn vào miếu lấy rượu, thịt xuống nhắm say khướt, rồi lại nâng chén ghé mãi vào miệng long thần. Thấy pho tượng cứ ngồi yên không nhúc nhích, ông tức mình vật ngửa tượng ra đổ rượu vào mồm, đánh cho mấy bạt tai rồi mới đi về.
Sáng mai tỉnh dậy, không biết là ông hối hận hay nghĩ thế nào mà lại làm bài thơ rồi đem ra dán ở miếu để tạ long thần: "Hôm qua trời tối tới chơi đây / Ðánh phải long thần mấy cẳng tay / Khi tỉnh thời nào ai có dám / Say!"
Bấy giờ ông từ mới vỡ lẽ, nhưng thấy anh học trò có lời thơ sắc sảo, hài hước, cũng bật cười, chỉ răn đe qua loa chứ không đem ra bắt vạ.