Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh, là nhân vật làm nghề địa lý phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam. Vào hơn 300 năm về trước, những thầy địa lí được coi như những bậc pháp sư, có thể khiến một ông thợ cày thành bậc quan lại phú quý, hoặc cho một ông trọc phú nứt đố đổ vách thành ra ăn mày. Tả Ao được cho là tác giả của một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam. Trong dân gian tương truyền nhiều giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của ông ở các làng xã Việt Nam thời xưa.
Thầy Tả Ao, theo một số nguồn, tên thật là Nguyễn Đức Huyên, quê ở Hà Tĩnh, sống vào khoảng thời Mạc. Bách khoa toàn thư Việt Nam viết rằng: Tả Ao, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, có tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức Huyền. Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê sơ (Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm 1442-1509) [cần dẫn nguồn]. Có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704). Ngoài ra, có các sách Địa lý phong thủy Tả Ao và Địa lý Tả Ao chính tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi... đều nói sơ lược về lai lịch Tả Ao.
Ông lớn lên trong một gia đình nghèo khó, mồ côi cha, người mẹ lại mù lòa. Để chữa trị cho mẹ, ông theo một khách buôn ở phố Phù Thạch (gần rú Thành ở Nghệ An) về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng dạy nghề thuốc cho. Khi đó có thầy địa lý Tả Ao là ông Mỗ (không xác định được danh tính) bị mù loà mời ông thầy đến chữa, do già yếu nên ông thầy sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi.
Vào buổi "thi tốt nghiệp", để thử tay nghề của học trò, ông thầy bèn đổ cát thành hình núi sông thành 100 thế đất và vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một thế huyệt Đế Vương là Tả Ao cắm chệch ra cạnh đồng tiền. Xong ông thầy nói: Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi. Rồi cho Tả Ao cái tróc long và thần chú. Thấy thế, ông thầy nọ bảo: Thế là tinh hoa địa lí đã về tay An Nam rồi.
Tả Ao sau đó về nước để trị bệnh cho mẹ. Trước lúc chia tay thầy, ông thầy địa lí dặn Tả Ao khi đi qua núi Hồng Lĩnh thì không được lên. Thế nhưng trên đường về về quế, Tả Ao lại vẫn muốn biết thế đất Hồng Lĩnh ra sao, bèn trèo lên núi xem, nhận ra đây là huyệt Cửu Long Tranh Châu cực quý, bèn cải táng cha mình vào huyệt. Quả nhiên một năm sau, mọi chuyện tốt đều đến. Ông cưới vợ, sinh được một cậu con trai khôn ngoan lanh lợi, gia đình phát đạt, mẹ già thì không một lần đau yếu.
Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc, các thầy thiên văn phát hiện các vì tinh tú đều chầu về nước Nam nên tâu với nhà vua, ý là nước Nam được đất sẽ sinh ra người tài, sẽ hại cho nhà Minh. Vua bèn truyền các thầy địa lý là nếu ai đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì phải sang tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc. Ông thầy của Tả Ao biết là chỉ có học trò của mình mới làm được việc này nên cho con trai tìm đường xuống nước Nam mà hỏi: Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia tiên nào chưa. Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con thầy Tàu bèn đến núi Hồng Lĩnh dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, yểm phá huyệt đạo, biến thế đất từ đại cát thành đại hung, bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu. Tả Ao nhận ra thì đã muộn. Rồi thân mẫu của Tả Ao mất, Tả Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi hải đảo để táng, đất này 500 năm mới mở một lần, khi mở thì gió bão nổi lên, nước cuốn mọi thứ xuống Hàm Rồng. Đến ngày giờ định táng thì trời gió to sóng lớn, khi chuẩn bị đẩy quan tài xuống thì anh trai của Tả Ao lại cố giữ lại, sợ thi hài mẹ tan nát trong xoáy nước. Hai anh em giằng co, cuối cùng thì Hàm Rồng đóng lại. Bỏ lỡ thời cơ Lát sau trời yên, biển lặng ở đó nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng: Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi. Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu du khắp bốn phương để chữa bệnh, tìm đất giúp người.
Từ đó Tả Ao không thiết đến cải táng ang phước cho mình nữa, mà chu du khắp nơi, tìm người tốt mà tạo phước, gặp kẻ ác thì trừng trị. Có rất nhiều giai thoại về Tả Ao tiên sinh trong thời gian này.
Khi về già, Tả Ao tìm thấy một thế đất tốt, gọi là "Nhất khuyển trục quần dương" (chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai, ai cho ở đó sẽ được thành phúc thần. Biết mình sắp chết, ông bèn chọn nơi ấy làm nơi an táng. Nhưng đến khi ông lâm bệnh, sai người khiêng áo quan ra chỗ gò đất ấy để an táng, thì sức lực suy kiệt, đi mới nửa đường thì ông đã hấp hối. Biết không thể đến nơi, ông đành bảo họ mai táng ông ở một gò đất bên đường,chỉ là nơi có huyệt "huyết thực" - một thế đất nhỏ, để được dựng miếu thờ (mai táng ở đất tốt là một chuyện, nhưng còn phải làm lễ các kiểu nên Tả Ao không thể chỉ chỉ đường cho họ mang ông ra đó táng thôi là xong được). Hai con ông bèn táng luôn ở đó (Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án - Nhà xuất bản Văn học 2001, sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính - Nhà xuất bản Thanh niên 1999).
Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.
Tả Ao còn để lại hai bộ sách, đó là: Địa đạo Diễn ca (120 câu văn vần), Dã đàm hay Tầm Long gia truyền Bảo đàm (văn xuôi) và một số dị bản khác: "Phong thủy Địa lý Tả Ao Địa lý vi sư pháp", "Phong thủy Địa lý Tả Ao Bảo ngọc thư" (của Vương Thị Nhị Mười-Nhà xuất bản Mũi Cà Mau-2005) và "Dã đàm Tả Ao" (của Cao Trung xuất bản tại Sài Gòn năm 1974)"...
Các sách vở cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao, là thuỷ tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thuỷ Việt Nam, giỏi địa lý phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc (còn có thuyết kể Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (như Tả Ao phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên ở Hà Nội, núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa,…)). Người đời xưa còn truyền lại bài thơ ca ngợi ông:
Tả Ao phong thuỷ nhất trên đời.
Hoạ phúc cầm cân định chẳng sai.
Mắt Thánh trông xuyên ba thước đất.
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời.
Chân đi Long Hổ luồn qua gót.
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời.
Ai muốn cầu sao cho được vậy.
Mấy ai địa lý được như ngài.