Đến nay, năm sinh và mất của Phùng Hưng còn chưa rõ ràng. Theo các sách chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Phùng Hưng là người ở làng Đường Lâm, thuộc Giao Châu. Ông vốn con nhà hào phú, có sức vật trâu, đánh hổ. Phùng Hưng mất năm 791, tức chỉ một thời gian ngắn sau khi đuổi được giặc phương Bắc. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng ông làm vua 7 năm rồi mất.
Còn theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần, Phùng Hưng quê ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội ngày nay). Ông sinh năm nào chưa rõ, mất năm Kỷ tỵ (789).
Theo sách "Việt điện u linh" của Lý Tế Xuyên, Phùng Hưng là Thế Tập Biên Khố Di Tù Trưởng châu Đường Lâm, hiệu là Quan Lang. Phùng Hưng xuất thân gia tư hào hữu, sức lực dũng mãnh, đánh được hổ, vật được trâu. Người em tên Hải cũng có sức mạnh kì dị. Phùng Hưng chính là vị thần đã hiển linh giúp Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938.
Giết hổ dữ cứu dân làng
Ông tự là Công Phấn, hiệu Đô Quân, là cháu 7 đời của Phùng Tói Cái, người từng vào cung vua Đường Cao Tổ (nhà Đường), dự yến tiệc và làm quan lang ở đất Đường Lâm.
Bố ông là Phùng Hạp Khanh, người hiền tài đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan lãnh đạo (722).
Phùng Hạp Khanh có vợ họ Sử, bà sinh một lần được 3 con. Anh cả là Phùng Hưng, em thứ hai Phùng Hải và em út Phùng Dĩnh.
So với hai người em, Phùng Hưng là người có tố chất đặc biệt. Ông có sức khỏe, khí phách lẫn trí tuệ. Với tài năng vượt trội của mình, Phùng Hưng đã nối nghiệp cha, trở thành hào trưởng đất Đường Lâm.
Trước khi dựng cờ khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng nổi danh trong vùng nhờ chiến tích tiêu diệt hổ dữ, mang lại bình yên cho xóm làng.
Bấy giờ, vùng Đường Lâm quê ông xuất hiện con hổ dữ thường xuyên giết người, bắt gia súc. Trước thảm họa của dân làng, Phùng Hưng cùng hai em ngày đêm tìm cách diệt hổ cứu dân lành.
Ban đầu, ông làm hình nộm bằng rơm, cho mặc quần áo như người thật, đặt ở nơi hổ thường qua. Trong những lần đầu đi ngang qua, hổ thấy bù nhìn tưởng người nên lao vào cắn xé nhưng chỉ có cọc gỗ độn rơm. Sau nhiều lần như thế, hổ không còn chú ý tới hình nộm nữa.
Một hôm trời chập choạng tối, Phùng Hưng cởi trần, thân đóng khố, trát bùn khắp người đứng thế vào chỗ hay đặt bù nhìn rơm. Khi hổ xuất hiện, hơi bùn non át hơi người nên nó không nhận ra, cứ bước qua như mọi lần.
Ngay lúc đó, Phùng Hưng bất ngờ xông tới nhảy lên mình hổ, ghì chặt mãnh thú. Sau một hồi vật nhau, con hổ đuối sức. Cùng với sự trợ giúp của hai em trai, Phùng Hưng giết được hổ dữ, trừ họa lớn cho dân làng.
Tiếng tăm của ông ngày một vang xa và đó chính là một trong những yếu tố quan trọng để Phùng Hưng kêu gọi nhân dân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, giành lại non sông gấm vóc cho dân tộc.
Khởi nghĩa chống nhà Đường
Theo Việt sử giai thoại, lúc bấy giờ, triều đình nhà Đường ở Trung Quốc ngày càng suy yếu. Nhân cơ hội đó, bọn cai trị ở An Nam không ngừng tăng cường vơ vét, bóc lột thậm tệ, đời sống nhân dân cơ cực, lầm than.
Căm ghét chính sách thống trị của quan lại nhà Đường, nhân khi quân lính ở Tống Bình nổi loạn, năm 766, Phùng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ nhà Đường.
Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng phát động nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của người dân từ khắp các miền đất Giao châu. Ban đầu, ba anh em họ Phùng làm chủ Đường Lâm rồi nghĩa quân đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng thuộc Phong Châu, xây dựng thành căn cứ chống giặc.
Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng Đô Tổng, chia quân trấn giữ những nơi hiểm yếu. Tướng nhà Đường là Cao Chính Bình đem quân đàn áp nhưng không thể làm gì được. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm.
Tháng 4 năm 791, Phùng Hưng cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, quân địch chết nhiều, Cao Chính Bình phải vào cố thủ trong thành, lo sợ đến phát bệnh ốm chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì và vào phủ Đô hộ, coi chính sự đất nước.
Phùng Hưng đồng lòng với dân chúng, lập em là Hải kế vị. Bồ Phá Lặc có sức khỏe đẩy được núi, không chịu theo Hải, lánh ở động Chu Nham. Bồ Phá Lặc lập Phùng An, con của Phùng Hưng. Phùng An tôn cha làm Bố Cái Đại Vương.
Nhà Đường cho Lý Phục làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, khi Lý Phục đã đến nơi, người An Nam đều yên lặng. Nhà Đường cho Triệu Xương làm Đô hộ. Xương đến nơi, sai sứ dụ Phùng An. Phùng An đem quân đầu hàng.
Sách Việt điện u linh chép: Phùng Hưng chết rồi, phụ tá đầu mục là Bồ Phá Lặc, sức có thể bài sơn cử đỉnh, dũng lực tuyệt luân, có ý không theo lập con Phùng Hưng là Phùng An, đem quân chống Phùng Hải. Phùng Hải tránh Bồ Phá Lặc, dời qua ở động Chu Nham, sau không biết ra sao nữa.
Phùng An kế vị được hai năm, vua Đường Đức Tông phong Triệu Xương sang làm An Nam đô hộ. Triệu Xương đến nơi, sai sứ đem nghi vật dụ Phùng An; Phùng An sửa sang nghi vệ, đem quân nghênh hàng Triệu Xương, các thân thuộc họ Phùng giải tán hết