Lý Ông Trọng là người Việt đầu tiên hiển đạt tại nước ngoài (Trung Quốc), được vua nước ấy nể trọng.
Ông người xã Thuỵ Hương, huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội ngày nay. Lúc nhỏ có tên là Lý Thân.
Đọc thêm:
Tương truyền lúc còn ít tuổi ông đã rất cao lớn, hơn hẳn các trẻ em bình thường. Rồi đến tuổi trưởng thành, cao tới 2 trượng 3 thước, lại có sức khoẻ phi thường. Ông hay giúp đỡ mọi người, nên được nhiều người mến phục. Đặc biệt khi ông giết chết con giải hay ăn thịt người ở khúc sông Cái chảy qua làng, thì lại càng được mọi người kính nể hơn.
Sự hào hiệp là anh em sinh đôi của tính tình khảng khái. Cho nên, khi gặp cảnh ngang trái ông thường lập tức ra tay. Những người bề trên, tức quan trên và các vị gia trưởng, bảo ông kiêu hãn, nghĩa là vừa kiêu ngạo lại vừa hung hãn. Họ chỉ thấy ở ông một kẻ bề dưới bất trị, mà không xét đến động cơ nào đã khiến ông có những hành động ấy.
Vào cuối thời Hùng Vương thứ 18, sắp sửa bước sang thời Thục Phán An Dương Vương, ở bên Tàu là cuối thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thuỷ Hoàng đã thôn tính xong 6 nước, rồi xưng là Hoàng đế (221 trước công nguyên). Lý Thân lúc ấy còn trẻ, vào làm nha môn cho một vị Lạc tướng, do một lần ra tay cứu giúp người bị nạn, chẳng may đánh chết hung thủ là người có bà con thân thích với quan trên. Vị Lạc tướng bắt Lý Thân, rồi khép vào tội chết ("sát nhân giả tử"), nhưng vua Hùng biết chuyện, tiếc một người trẻ tuổi có nghĩa khí nên tha cho, chỉ còn bắt đánh đòn.
Sau trận đòn nhục nhã, Lý Thân càng thấm thía thêm thân phận của kẻ tôi đòi. "Người ta có tráng chí ở đời, hãy nên như chim loan, chim phượng bay cao chín tầng trời, bay xa ngàn vạn dặm, chứ không nên quanh quẩn mãi ở đây, để cho người ta hành hạ mãi" - ông nghĩ.
Từ đấy, ông bỏ nha môn, đi tìm các thày giỏi để học. Vừa học chữ, vừa học võ nghệ. Học thầy trong nước, rồi lại học cả thầy ở ngoài nước (Trung Quốc). Ông chẳng quản ngại đường sá xa xôi, hễ biết ở đâu có thầy giỏi là lập tức tìm đến theo học.
Rồi đến lúc ông thành tài, chẳng những có võ nghệ cao cường mà còn làu thông cả kinh sử. Lúc ấy ông đang ở bên Tàu.
Thời ấy, ở Trung Quốc tuy học hành đã phát triển, nhưng chưa đặt ra chế độ thi cử để chọn nhân tài. Nhân tài được chọn theo cách: các quan lại địa phương tiến cử lên nhà vua những người tài giỏi có tiếng trong địa hạt của mình để nhà vua lựa chọn rồi bổ dụng.
Lý Thân được tiến cử đến Tần Thuỷ Hoàng, lúc ấy là vị Hoàng đế lẫy lừng, người đầu tiên thống nhất Trung Quốc.
Biết tài của ông, Tần Thuỷ Hoàng trọng dụng, rồi về sau cho thăng đến chức Tư lệ hiệu uý - một quan chức lớn trong quân ngũ.
Lúc bấy giờ, tuy nhà Tần thôn tính xong các nước, nhưng ở biên giới phía Bắc, vẫn bị người Hung Nô thường xuyên vào cướp. Hung Nô tuy quân ít nhưng kỵ binh của họ lại rất thiện chiến, khiến cho quân Tần phải nhiều phen khốn đốn, chống đỡ không nổi.
Tần Thuỷ Hoàng bèn phái Lý Thân đến trấn giữ đất Lâm Thao (thuộc tỉnh Cam Túc ngày nay) để đối phó với Hung Nô. Lý Thân một mặt cho canh phòng nghiêm ngặt, mặt khác lại tổ chức nhiều đợt phản công, đánh bao vây tiêu diệt lớn, khiến cho người Hung Nô sau mấy lần thất bại, đành phải từ bỏ ý đồ xâm lấn. Về sau, hễ họ trông thấy Lý Thân ở đâu, là lập tức quay ngựa chạy, không còn dám chống cự.
Cả một vùng biên giới bình yên, khiến cho vua Tần vui mừng tựa như vừa cất xong gánh nặng. Tần Thuỷ Hoàng rất quý trọng ông, phong là Phụ Tín hầu rồi gả công chúa cho ông. Đối với một người ngoại tộc, vừa được phong tước lớn lại vừa được nhận làm con rể, thì quả là rất hiếm hoi.
Tuy nhiên, mặc dù được trọng thị và tin dùng, nhưng Lý Thân vẫn cảm thấy lạc lõng, bơ vơ ở nơi đất khách quê người. Ông gửi lòng mình theo những áng mây trôi về phương nam, ở đó là quê hương, có cha mẹ, anh em và đồng bào của ông đang sinh sống. Mặc dù ngày trẻ, do phẫn chí mà ra đi, nhưng đến nay, khi tuổi tác đã cao, ông lại càng thấm thía nỗi đau của người xa xứ.
Nhưng đang mắc việc quân trọng đại, làm sao ông có thể trở về được? Ông rất biết Tần Thuỷ Hoàng, dù trọng thị và tin dùng thế nào thì vẫn chém đầu, nếu ông tự tiện rời bỏ nhiệm sở. Thế là ông đành phải chờ đến lúc mình tuổi cao sức yếu vậy.
Ông dâng sớ cáo lão lên Tần Thuỷ Hoàng khi thấy mình không còn đảm đương nổi việc quân, và cũng xin nhà vua cho trở lại quê hương để được nhìn mặt những người thân lần cuối. Tần Thuỷ Hoàng cho lời tâu ấy là thực, bèn chuẩn y. Thế là không quản hàng vạn dặm đường xa, ông lui gót về quê, nơi trước kia ông đã sinh ra. Được vài năm thì ông mất, hoàn toàn mãn nguyện.
*
* *
Hàng ngàn năm sau, lúc ấy nước ta đang ở gần cuối thời kỳ thuộc Đường (603 - 906), Triệu Xương (801) rồi Cao Biền (864) lần lượt sang ta cai trị. Hai tên cáo già này muốn thu phục lòng người nước Nam bằng việc xây miếu thờ Lý Thân ở làng Chèm (Từ Liêm - Hà Nội) rồi sau đó cho tạc tượng và tu bổ đền miếu qui mô to lớn. Xương và Biền lại phao tin rằng đã từng nằm mộng thấy cùng đàm đạo với Lý Thân, hoặc được Lý Thân hiển linh giúp đỡ đánh thắng quân Nam Chiếu.
Mặc dù có những việc làm và lời lẽ lừa mỵ của quân xâm lược khi nói tới Lý Thân, nhưng tình cảm của nhân dân đối với ông cũng chẳng vì thế mà suy suyển. Ông vẫn xứng đáng được tôn thờ bởi tài năng, sự khảng khái và chí tiến thủ của mình. Những gì ông đạt được thực không dễ dàng ở vào thời buổi ấy. Vậy mà, đến lúc cuối đời ông lại từ bỏ tất cả để được trở về quê hương, mà đường đất đi lại nào có gần gũi gì. Ông căm giận những người đã xỉ nhục mình mà bỏ nước ra đi, nhưng chưa bao giờ ông phản lại nhân dân và đất nước cả.
Việc từ trước đến nay mọi người đến đền Chèm dự lễ hội tưởng nhớ ông, vì thế, là theo lẽ tự nhiên, chứ không phải bị kích động bởi lời lẽ của Triệu Xương hay Cao Biền.
Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc phong tặng cho ông. Thời Trần trùng hưng đặt các mỹ hiệu "Anh liệt", "Dũng mãnh". "Phụ tín"...
Lại nói đến thời nhà Tần (Trung Quốc). Sau khi thấy Lý Thân già yếu, Tần Thuỷ Hoàng chuẩn y cho ông cáo lão, lại ban cho ông xe ngựa để vượt hàng vạn dặm đường dài.
Để vẫn tiếp tục giữ cho quân Hung Nô khỏi vào xâm lấn, Tần Thuỷ Hoàng sai lấy đồng đúc tượng ông thật lớn, đặt trước của Tư Mã ở Hàm Dương - Kinh đô của nhà Tần lúc bấy giờ. Bụng tượng khoét rỗng, chứa được hàng chục người. Vua Tần sai mấy người lính thay nhau vào đấy, thỉnh thoảng lại làm cho tượng cử động chân tay, đầu tóc, hoặc đi lại được. Quân Hung Nô ở xa trông thấy, tưởng là Lý hiệu úy vẫn còn sống, nên không dám vào xâm phạm.
Thay vì gọi tên bức tượng là Lý Thân, Tần Thuỷ Hoàng cho gọi đó là Lý Ông Trọng. Xem thế đủ biết, Tần Thuỷ Hoàng đã nể trọng ông đến mức nào.