Sáng ngày lễ Phục sinh, tiếng chuông nhà thờ vang lên. Vầng thái dương làm tươi vui hẳn bầu trời. Trong cơn lo lắng đến phát sốt lên, Vanđơma đã thức thâu đêm, nấu chảy rồi để nguội, pha trộn, rồi gạn chắt. Ta nghe thấy lão thở dài như một tâm hồn đang đau khổ, rồi lão lại cầu nguyện, nín thở. Đèn đã tắt ngúm mà lão cũng chẳng để ý gì đến cả. Ta thổi vào đám củi tàn; ánh lửa soi sáng bộ mặt lão, trắng bệch như vôi. Mắt lão sâu hoắm, trợn tròn, to ra, to mãi như muốn bật ra ngoài.
"Vàng đây rồi! Lão reo lên. Nó lấp lánh, đặc sệt và tinh khiết biết bao!" Lão nhấc bình thuỷ tinh đựng nước luyện kim lên, tay run run, mồm lắp bắp: "Vàng! Vàng!" Lão choáng váng, chỉ thổi khẽ thôi ta cũng có thể xô lão ngã; nhưng ta chỉ thổi vào đám than hồng đỏ rực, rồi ta theo lão vào phòng các cô con gái đang rét cầm cập. Quần áo, râu tóc lão phủ đầy tro bụi. Lão đứng vươn cao giữa phòng, giơ cao bình thuỷ tinh và hét lên: "Chế ra vàng rồi!" Thuỷ tinh lấp lánh trong ánh mặt trời. Tay lão run lên. Chiếc bình rơi xuống đất vỡ tan thành muôn mảnh. Thế là đi đời niềm hy vọng cuối cùng của Vanđơma. Vi vu, vi vu... Mọi việc trôi qua, trôi qua! Thế là ta ra khỏi lâu đài của kẻ tìm vàng.
Vào những ngày ngắn ngủi cuối năm ở phương Bắc, sương sáng đọng hạt trên những quả bạc màu đỏ và trên những cành cây trụi lá, ta lại trở lại vui vẻ; ta tẩy sạch bầu trời bằng hơi thở của ta và làm gãy vài cành cây, công việc thường phải làm, chẳng có gì là nặng nhọc lắm. Ở lâu đài Bôrơby , Ovơ Ramen, chủ nợ của Vanđơma đang ngồi ở đây với bản khế ước cầm cố gia sản và lâu đài Vanđơma. Ta gõ nhịp vào những tấm kính vỡ, làm dập các tấm cửa sắt han rỉ, rít qua các lỗ và các khe cửa. Vi vu, vi vu...
Ovơ Ramen, có lẽ không thích ở đây lắm.
Iđa và Anơ-Đôrôtê oà lên khóc. Gian ngồi cắn ngón tay, cứng nhắc và xanh xao. Ovơ Ramen mời Vanđơma ở lại suốt đời ở lâu đài, nhưng việc ấy đề ra chẳng được một lời cảm ơn của Vanđơma. Ta thấy Vanđơma ngửng đầu lên, kiêu hãnh hơn bao giờ hết. Ta bèn tỏ ý thán phục bằng cách thổi mạnh vào lâu đài, vào rặng cây bồ đề, mạnh đến nỗi một cành to, không bị mục nát, cũng gẫy tan ra, rơi xuống trước cửa.
Hôm ấy là một ngày nặng nề, một bước gian nan phải vượt qua nhưng Vanđơma đã tỏ ra can đảm và kiêu hãnh.
Họ chỉ còn quần áo mặc trên người và một bình thuỷ tinh mới mua đựng nước luyện kim vét dưới đất, thứ nước quý báu hứa hẹn nhiều, nhưng thực tế chẳng đem lại kết quả gì. Lão chúa đất, trước kia giàu có biết bao, nay ôm chặt cái bình trước ngực, một tay cầm gậy, cùng các con ra khỏi lâu đài Bôrơby. Ta thổi hơi lạnh buốt vào đôi má nóng rực, lay chòm râu xám và bộ tóc bạc của lão. Ta hát như mọi khi! Vi vu, vi vu... Mọi việc trôi qua, trôi qua! Thế là hết hạnh phúc.
Iđa và Anơ-Đôrôtê, ngập ngừng đi cạnh lão. Gian, trước khi đi theo chị và em, ngập ngừng một lát, rồi bỗng quay lại ngưỡng cửa. Nàng ngắm nghía những viên đá đỏ trên tường thành, mang từ lâu đài Máctít về, và nàng liên tưởng đến các cô con gái đã sống trong lâu đài ấy.
Nàng cả cầm tay nàng út. Và cả hai ra đi khắp thế gian. Phải chăng nàng nghĩ tới bài hát ấy? Ngày nay, các nàng gồm ba người và thêm cả ông bố cùng đi.
Các nàng đi qua con đường mà trước kia nàng đã từng ngồi xe dạo qua. Các nàng lếch thếch như những kẻ ăn xin, đi đến ngôi nhà bằng đất ở miền Xmittrơp mà Vanđơma thuê 10 mác một năm. Tường nhà trần trụi. Đàn quạ bay lượn xung quanh nhà vừa gào lên: "Bị tống cổ ra! Bị tống cổ ra! Quạ! Quạ!" như chúng đã từng kêu trong khu rừng Bôrơby khi người ta triệt hạ cây cối.
Vanđơma và các cô con gái rất hiểu chúng muốn nói gì. Ta vội thổi ngay vào tai họ vì họ chẳng cần nghe những lời ấy. Họ bước vào ngôi nhà bằng đất, còn ta, ta vượt qua đồng bằng và đầm lầy, qua các bờ rào bờ giậu và những khu rừng trụi lá để thổi tới biển cả và các xứ sở khác. Vi vu... Mọi việc trôi qua! Mọi việc trôi qua! Vanđơma và các cô con gái sau này ra sao nhỉ? Gió kể tiếp. Người mà ta đã gặp lại là đoá dạ hương lan xanh nhạt. Lúc ấy nàng đã già cả, lưng còng. Năm mươi năm đã qua. Nàng là người cuối cùng trong gia đình còn sống và còn nhớ lại mọi chuyện cũ.
Giữa đồng bằng, trong thành phố Viho, mọc lên toà nhà mới và sang trọng của ông mục sư, xây bằng đá đỏ, khói nghi ngút bốc lên từ ống khói. Bà chủ nhà đáng yêu và các cô con gái đứng gần cửa sổ nhìn qua cành lá leo trên cửa sổ về phía đồng bằng màu nâu nhạt. Họ ngắm gì thế nhỉ? Họ ngắm một tổ cò làm trên một túp lều tiều tụy. Mái lều phủ đầy rêu và rạ, hay nói cho đúng hơn, phủ bằng tổ cò.
Cái lều thật là thảm hại! Người ta có thể nhìn ngó nó, nhưng không nên đụng vào nó.
Gió nói: Ta thận trọng thổi qua. Nếu không có tổ cò thì có lẽ người ta đã phá cái túp lều đó đi rồi, vì nó làm xấu cả cánh đồng. Ông mục sư chẳng nỡ đuổi người ở trong lều đi, thế là túp lều còn lại và người đàn bà đáng thương còn được ở trong ấy. Bà ta phải cảm ơn con chim của xứ Ai Cập, hay chính cò phải cảm ơn bà đã cứu sống anh em nó ở khu rừng Bôrơby năm xưa. Lúc ấy người đàn bà đáng thương mới chỉ là một em bé, một đoá dạ hương lan xanh nhạt và dịu dàng: Anơ-Đôrôtê. Bà ta còn nhớ tất cả các chuyện cũ.
Phải, bà nói, con người ta có thể thở dài như gió qua các bụi cây và lau sậy! Chẳng có lấy một tiếng chuông thỉnh trên mồ Vanđơma Đa! Không có em học trò nghèo nào hát bản kinh cầu nguyện khi người ta đem đi chôn ông chúa lâu đài Bôrơby. Mọi sự trên đời đều có ngày kết thúc, ngay cả cảnh nghèo khổ cũng vậy. Chị Iđa tôi đã lấy một người nông dân. Cha tôi rất đau khổ về việc đó. Chả là con rể ông chỉ là một người bình dân mà ông thường khinh rẻ. Than ôi! Cha nằm dưới đất có lẽ sướng hơn trên này. Cả chị Iđa nữa. Còn tôi, mụ đàn bà đáng thương này, bao giờ mới hết kiếp? Thượng đế chí minh, xin người hãy giải thoát cho tôi!
Trên đây là lời khấn nguyện trong túp lều của Anơ-Đôrôtê. Nói về Gian, chính ta đã cứu nàng, người táo bạo nhất trong ba cô, gió kể tiếp. Nàng xung vào làm thuỷ thủ trên một chiếc tàu. Nàng luôn lầm lì và mặt mày ủ rũ, nhưng nàng có nghị lực và không than phiền gì cả. Một hôm ta thổi thành bão táp và đã đẩy nàng xuống biển. Ta nghĩ rằng như thế là ta đã giải thoát cho nàng.
Lại đến ngày lễ phục sinh, ngày mà trước kia Vanđơma tưởng là đã chế ra vàng. Bên dưới tổ cò, qua bốn bức tường đổ nát, ta nghe có tiếng người hát nguyện. Đó là tiếng hát cuối cùng của Anơ-Đôrôtê. Nhà không có cửa kính mà chỉ có một lỗ trên tường. Mặt trời như một quả cầu bằng vàng làm cho người hấp hối hồi tỉnh lại; nhưng chẳng bao lâu nữa bà ta chẳng cần đến ánh sáng mặt trời. Chú cò vẫn đứng trên mái nhà cho đến khi bà ta tắt thở. Chính ta đã hát nguyện khi đưa đám bà, cũng như ta đã hát nguyện khi chôn Vanđơma và chỉ có ta biết mộ ông ta ở chỗ nào.
Một thế hệ khác, một thế hệ mới đã đến. Những đường cái cũ trở thành đất đai riêng, những nấm mồ yên tĩnh bị san thành đường đi mới, tiếp đến những con đường sắt chạy trên các nấm mồ và xoá nhoà tên tuổi những người nằm bên dưới. Vi vu, vi vu... Mọi việc trôi qua, trôi qua cả!
Truyện Vanđơma Đa và các nàng con gái thế là hết đấy, các bạn có thể kể hay hơn được thì cứ kể đi. Gió nói rồi ngoắt đi, biến mất.