Ngày xưa, nhà vua có lòng mến mộ và trọng dụng người tài nên thường truyền cho các quan lại đi khắp nơi để tuyển lựa người tài đức trong dân gian ra giúp nước. Hôm đó, một viên quan dắt ngựa qua cánh đồng thì gặp hai cha con người nọ, bèn cất lời hỏi:
- Này, bác nông dân, trâu của bác một ngày cày được bao nhiêu luống đất?
Bất ngờ gặp câu hỏi kì lạ, người bố lúng túng còn chưa biết trả lời quan như thế nào, cậu bé đã nhanh nhẹn thưa:
- Bẩm quan, ngựa của ngài cưỡi, đi được bao nhiêu bước một ngày?
Sự ứng đáp khôn ngoan của cậu bé làm vị quan kia rất vừa lòng, ông về tâu lại với nhà vua. Để thử tài cậu bé, vua ban thưởng cho dân làng ba thúng nếp ngon và ba con trâu đực để nuôi. Vua ra lệnh, khi trâu lớn phải đẻ ra nghé. Lệnh vua làm dân chúng trong làng sợ hãi và lo lắng. Cậu bé bình tĩnh nói:
- Xin dân làng đừng lo lắng, xin hãy chuẩn bị cho bố con tôi sẽ lên kinh đô lo chuyện này.
Lên tới kinh đô, gặp được vua, cậu bé quỳ xuống và khóc ầm lên.
- Con muốn có em, mà bố con lại không chịu đẻ em bé.
Nghe xong, Vua và các quan cười ngất. Vua nói:
- Bố con là đàn ông thì sao đẻ được!
Cậu bé thôi khóc, hỏi lại vua:
- Thế thì trâu đực vua ban cho dân làng con làm sao đẻ ra nghé được ạ?
Vua sai một viên quan đưa đến cho cậu bé một con chim nhỏ và truyền cho cậu bé giết chim để làm tiệc cho vua ăn. Cậu bé thưa lại:
- Xin tâu lại với vua, hãy lấy cây kim khâu và rèn kim thành dao to và sắc để tôi làm thịt chim.
Phục tài và trí thông minh của cậu bé, vua cho người đến dạy chữ và võ cho cậu.
Một hôm, sứ giả nước láng giềng dâng vua một vỏ ốc và sợi chỉ, thách rằng:
- Nếu luồn được sợi chỉ qua vỏ ốc thì hai nước kết giao; nếu không sẽ phải mất một phần đất.
Bí quá, vua đành sai quan đi hỏi cậu bé. Cậu bé đọc một bài thơ cho quan nghe, để về trình vua:
Tích tịch tình tang.
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng.
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang.
Bài thơ có ý là: Lấy sợi chỉ buộc ngang lưng một con kiến càng, cho nó bò vào vỏ ốc.
Con kiến càng chui qua vỏ ốc một cách dễ dàng. Vua và cả triều đình mừng rỡ. Sứ thần thán phục tài trí kiệt xuất này, đành rút quân về, không đòi chia đất của nước ta nữa.
Cậu bé được gọi là Thần Đồng. Lớn lên, với sự thông minh và siêng năng học hành, cậu bé đã thi đậu trạng nguyên.
Đây chính là giai thoại về trạng nguyên Nguyễn Hiền ngày xưa.