Bà Om nhận đào cái ao còn ông Lũy thì nhận đắp con đê dài. Bên phía bà Om tích cực làm việc trong khi phía ông Lũy ỷ sức mình, chỉ lo nhậu nhẹt. Khoảng 12 giờ đêm, phía bà Om gần xong. Bà nghĩ ra một kế là thả lồng đền gió lên cao để đánh lừa ông Lũy. Ông Lũy nhìn về hướng đông thấy lồng đền gió tưởng là sao Mai đã mọc nên bỏ dở công việc ra về... Bên phía bà Om nhờ cật lực làm việc nên đến lúc sao Mai mọc thì công việc xong xuôi. Ông Lũy thua cuộc và đúng lời giao ước phải đi cưới bà Om. Bắt đầu từ đó mà có tục lệ người đàn ông phải đi cưới người đàn bà. Hiện nay ao Bà Om vẫn còn. Qua nhiều thế hệ, nó được tu sửa lại và trở thành một thắng cảnh. Bờ lũy cách ao Bà Om khoảng 5km về phía tây là một con đường đắp dở đi về phía ông Chích là dấu tích còn lại của công việc mà ông Lũy đã bỏ dở khi xưa. Ngày nay, nhân dân vùng này vẫn đi lại và vận chuyển hàng hóa trên con đường ấy.
Bản kể khác:
1. Bà Om và ông Lũy ở với nhau đã có một đứa con nhưng không biết đặt tên cho nó theo họ cha hay họ mẹ nên mới bày cách thi nhau làm công việc: đào ao (do bà Om chỉ huy) và đắp lũy (do ông Lũy chỉ huy). Về sau, bà Om thắng nên đứa con phải theo họ mẹ. Đó là tục lệ của người Khmer. Mãi đến khi thực dân Pháp xâm lược, theo đúng thủ tục hành chính, người Khmer mới phải theo họ cha.
2. Vào thời Thủy Chân Lạp, nhà vua cho đào ao để công chúa tắm. Trên mặt ao, vào mùa mưa mọc rất nhiều rau mò om (rau để nấu canh chua). Từ đó đời này qua đời khác, nhân dân gọi đó là rau mò om và ao đó về sau cũng gọi là ao Bà Om. Cái ao Bà Om có từ đó và tên gọi là theo nghĩa trên. Cũng có người cho rằng chữ Bà Om là danh từ Pơ-ra-Âng (Prah Âng) tức là chùa Prah Âng đọc trại ra thành Bà Om.
3. Ngày xưa, có một hoàng tử cùng em gái trấn nhậm vùng đất Trà Vinh xưa. Hoàng tử đóng dinh ở Prasat, tức Sóc Trăng ngày nay, còn công chúa thì chọn khoảng đất gần chùa Âng ngày nay để dừng chân. Do không tìm được người con gái vừa ý để cưới, hoàng tử đã sang hỏi cưới em gái nhưng bị công chúa cự tuyệt vì trái luân thường. Nàng cho binh lính đắp lũy hào quanh dinh thự để ngăn bước anh trai qua quấy rối. Nàng cũng cho đào ao lấy nước ngọt dùng trong dinh và giao cho "tứ nữ cận thần", do bà Om chỉ huy, canh gác bốn phía. Dân trong vùng tới lui lấy nước, gọi là ao Bà Om...