Ngày xưa có một điền chủ giầu có thế nhưng lại hiếm muộn, mãi mới chỉ có một đứa con gái duy nhất. Người con gái đó khi trưởng thành lại là một thiếu nữ rất đẹp, tươi như một đóa hoa nhài, mắt sáng, tóc đen tuyền tết thành hai bím dài. Cô vừa đẹp vừa dịu dàng, nhã nhặn, ngoài ra lại rất khéo léo. Khi cô ngồi vào xe tơ, cô quên hết mọi thứ và cô kéo chỉ, kéo mãi - trông cô làm việc thật thích mắt. Không ai kéo được sợi tơ mảnh như tơ nhện và mềm như lụa như cô. Buổi tối khi cô ngồi kéo tơ, thanh niên thiếu nữ trong làng kéo nhau tới đập cửa và xin cô cho họ vào nhà, lúc đó họ ngồi quanh cô gái quay tơ mải mê ngắm những ngón tay búp măng khéo léo và lắng nghe giọng hát du dương hòa theo tiếng ro ro êm ái của guồng tơ. Nhiều thanh niên đã ngỏ lời cầu hôn, nhưng cô chỉ mỉm cười từ khước.
Trong số người làm thuê cho cha cô có một thanh niên chăn cừu, một anh con trai cao ráo như cây mây, mạnh bằng ba người đàn ông vóc vạc như anh, và có lòng tốt, nên ai cũng thương mến. Nhưng anh lại nghèo, nghèo không một xu dính túi. Vì cô gái có lòng thương người, cô thương hại anh chăn cừu nghèo nàn. Và vì từ lòng thương hại tới tình yêu thường chỉ có một bước, chuyện phải tới đã tới. Một cái nhìn vụng trộm, mặt cô gái ửng hồng; một nụ cười của anh chăn cừu gởi cho thiếu nữ, đôi mắt sáng dịu dàng âu yếm, và thế là đôi thanh niên nam nữ đâm ra si tình nhau mà cũng không biết tại sao.
Nhưng người cha thì muốn con gái lấy chồng giàu có nên không bao giờ chịu gả cô cho một anh chăn cừu nghèo nàn! Vì thế hai người phải giấu kín tình yêu của mình, như hai con chim lạc trong sương mù.
Anh chăn cừu nhiều đêm bới óc tìm cách chinh phục ông điền chủ để tạo hạnh phúc cho mình và cho người yêu. Một hôm, anh có một ý nghĩ xem ra hữu hiệu. Anh đặt bẫy chuột ở khắp nơi rồi chờ đợi. Không lâu sau đó anh nghe bẫy sập, và một con chuột nhắt kêu ríu rít trong bẫy.
- Thả tôi ra, thả tôi ra! con chuột nhắt nói. Tôi là hoàng tử, con của vua chuột. Nếu anh thả tôi, cha tôi sẽ đền bù trọng hậu.
- Đồng ý, nhưng hãy gọi cha cậu tới trước đã, ta muốn nói chuyện với cha cậu - anh chăn cừu ra lệnh cho con chuột tù binh.
Hoàng tử chuột rít lên; người ta nghe tiếng sột soạt và vua chuột tới trước anh chăn cừu.
- Hãy trả tự do cho con tôi, tôi sẽ làm bất cứ việc gì anh muốn - vua chuột khẩn khoản.
- Ta sẽ thả với một điều kiện duy nhất. Ngươi có ba ngày để đào một đường hầm từ đây tới chùa.
- Đó là chuyện trẻ con - vua chuột quả quyết. Người ta nghe tiếng sột soạt, và nó biến mất.
Nó lập tức gọi tất cả gia tộc của nó và các gia tộc bạn bè tới, và tất cả bắt đầu cào, bới, gặm, nhấm, đến mức chưa hết ngày thứ ba mà họ hàng nhà chuột nhắt đã đào xong một đường hầm nối liền phòng của anh chăn cừu với chùa thờ Phật. Anh thả hoàng tử chuột như đã hứa.
Vợ ông điền chủ có thói quen tới chùa cầu Phật từ lúc gà gáy sáng, ngày nào như ngày nào. Bà quỳ lạy sát đất, lẩm bẩm vài câu kinh cầu Phật phù hộ bà và gia đình bà.
Hôm đó bà mang một giỏ lễ vật lên chùa. Bà quỳ ngay ở cửa, đập đầu sát đất, ngước mắt nhìn đức Phật để xem ngài có mỉm cười khoan dung và nhìn bà như trước không. Bà lạy ba lần, thêm lời cầu nguyện thường lệ:
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật! xin Phật phù hộ gia đình con, sau này cho chúng con về Tây phương cực lạc.
Người ta nghe một tiếng động, tiếng Phật rung rinh trên bệ, và tiếng nói ồ ề cất lên trong thanh vắng:
- Các ngươi không về Tây phương cực lạc được nếu không gả đứa con gái duy nhất cho tên chăn cừu làm thuê cho các ngươi.
Máu đông lại trong huyết quản bà điền chủ. Bà nín thở! Như bị thôi miên, bà nhìn đăm đăm gương mặt khó dò với nụ cười bí ẩn của đức Phật. Và lúc đó bà còn nghe thêm giọng nói nghiêm khắc:
Các ngươi không về Tây phương cực lạc được nếu không gả đứa cơn gái duy nhất cho tên chăn cừu làm thuê cho các ngươi!
“Như vậy không phải mình nghe nhầm - bà điền chủ nghĩ thầm. Nhưng làm sao tượng Phật lại nói được?” Nhưng vì kính sợ phật nên bà vội ra khỏi chùa và chạy về nhà theo đường tắt. Ở trong sân, anh chăn cừu đã đủ thì giờ theo đường hầm trở về, đang bình thản quét dọn.
Mệt gần đứt hơi, bà điền chủ vào phòng riêng và nói rõ từng tiếng:
- Ông nó ơi, chúng ta phải gả ngay con gái cho tên chăn cừu, nếu không, chúng ta không được về Tây phương cực lạc!
- Bà điên rồi hả? ông điền chủ mắng. Gả con cho một tên bần cùng như nó à?
- Chính đức Phật đã quyết định như vậy! bà tuyên bố với giọng không cãi lại được.
- Cái gì, đức phật hả ? ông điền chủ không tin. Chuyện điên rồ gì vậy, và sao đức Phật nói được?
- Nếu ông không tin, ông cứ tới chùa và tự tai mình nghe lấy.
Nói xong, bà điền chủ giận dỗi bỏ đi.
Ông điền chủ lắc đầu. Ông không bao giờ đi chùa và không quan tâm tới đức phật nhiều lắm, nhưng ông nghĩ rằng không nên đùa với quyền uy của trời đất. Nhưng nếu đúng như vậy thì sao? Vì chuyện này làm ông lo lắng, ông quyết định sáng hôm sau sẽ tới chùa để tự mình chứng thực.
Hôm sau, từ sớm tinh sương, ông đã ra đi, mang theo một giỏ lễ vật, thực phẩm. Và tới chùa, ông nhìn tượng Phật, nhưng không thấy có gì đặc biệt. Đức Phật ở đó, như bình thường, với nụ cười khó xác định và hai con mắt lim dim.
“Chắc bà vợ mình đã nằm mơ”, ông điền chủ bảo thầm. Nhưng đúng lúc đó có một tiếng động lạ làm tượng Phật rung rinh, và trong cảnh thanh lặng, một tiếng nói nghiêm khắc cất lên, nghe oang oang:
Các ngươi sẽ không về Tây phương cực lạc được nếu không gả đứa con gái duy nhất cho tên chăn cừu làm thuê cho các ngươi!
A Di Đà Phật, xin Phật thương con, con sẽ làm như lời Phật dạy! ông điền chủ rụng rời phải hứa. Trán ông lấm tấm mồ hôi lạnh ngắt. Không nghe thêm nữa, ông quay lưng chạy về nhà.
Bà nó ơi! Phải gả con gái của chúng ta cho anh chăn cừu càng sớm càng tốt. Bà nói đúng, đúng là Phật đã nói!
Vì vậy cha mẹ cô gái làm theo lời Phật dạy. Đám cưới cử hành ngay sau đó, kéo dài ba ngày ba đêm liên tiếp, nhiều khách được mời tham dự.
Sau đám cưới, người vợ trẻ nói với chồng:
- Nếu không có đức Phật từ tâm ở chùa, cha mẹ em không bao giờ gả em cho anh. Chúng ta phải biết ơn người và không bao giờ được quên.
Rồi nàng giải thích cho anh chăn cừu toàn bộ câu chuyện Phật nói ở chùa, nằn nì để chồng đừng quên cúng Phật.
Anh chăn cừu không biết phải có thái độ nào. Sau một lúc suy nghĩ, anh nói:
- Tôi tin rằng hẳn đó là Phật sống hiện thân.
Trong thâm tâm anh vui vẻ cười thầm và không bao giờ hở môi với ai về việc đó.