Truyện thứ tư
Hoàng tử và Công chúa
Giécđa đành phải ngồi nghỉ. Gần nơi em ngồi có một con quạ lớn. Quạ đậu ở đấy từ lâu, nhìn em, lắc đầu rồi cất tiếng kêu: "Quạ! Quạ! Quạ! Quạ!" Quạ không thể nói rõ hơn được nữa, nhưng có vẻ lưu ý đến cô bé và hỏi em đi đâu một mình như vậy. Giécđa nghe rất rõ hai tiếng "một mình", em thuật lại cuộc đời và mối lo lắng của em cho quạ nghe và hỏi quạ có trông thấy Kay ở đâu không. Quạ lắc đầu, suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Có thể, có thể!
- Thật ư? Em reo lên và ôm ghì lấy quạ mà hôn, suýt nữa làm quạ chết ngạt.
- Làm gì mà rối lên thế? - Quạ bảo - Tôi nghĩ rằng cậu bé mà tôi thấy có lẽ đúng là Kay. Nhưng giờ thì chắc là Kay thích công chúa hơn và đã quên cô rồi.
- Kay ở nhà một nàng công chúa ư? - Giécđa hỏi.
- Phải, cô hãy nghe đây, quạ đáp, nhưng nói cái tiếng của cô khó quá đi mất. Giá cô biết tiếng của chim thì hay biết mấy.
- Không, tôi chưa học tiếng chim bao giờ. Bà tôi cũng biết lắm cơ! Tiếc quá! Nếu tôi chịu khó học bà tôi thì hay biết mấy!
- Không sao! Quạ nói. Tôi sẽ cố gắng nói thế nào cho cô có thể hiểu được.
Và quạ kể lại tất cả những điều mà quạ biết:
- Trong giang sơn của chúng ta đang đứng đây có một nàng công chúa rất mực thông thái, thông thái đến nỗi đã đọc qua hết các báo xuất bản trên thế giới, nhưng được cái đọc xong thì lại quên tất! Giờ nàng đã lên ngôi báu và thiên hạ đồn rằng nàng thường hay hát bài: "Ta muốn lấy chồng", với một giọng nghe ra như oán như sầu. Thật là bài hát đầy ý nghĩa! Nàng muốn lấy chồng, nhưng lại muốn kén một người nói năng hoạt bát, chứ không phải một người chỉ có cái bề ngoài chững chạc. Cái vỏ ngoài nàng cho là không quan trọng gì mà còn làm cho nàng khó chịu là đằng khác. Bỗng nhiên, có một ngày, nàng bắt các mệnh phụ trong triều học đánh trống và họ cũng lấy làm khoái được học cái môn ấy. Họ đồng thanh nói:
- Hay cha chả là hay! Chính chúng tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy!
Quạ kể tiếp:
- Cô có thể tin những lời tôi kể. Chả là tôi có một cô bạn gái đã được người ta mang về nuôi, được bay nhảy tự do trong cung và đã kể lại tất cả cho tôi nghe.
Dĩ nhiên cô bạn gái ấy là một ả quạ cái, vì quạ đực thì chỉ có đánh bạn với quạ cái chứ sao!
Một ngày kia, trên các tờ báo xuất hiện, chân dung của công chúa có đóng khung hình quả tim và có in tên công chúa, có gạch dưới hẳn hoi. Báo lại có đăng rõ ràng rằng tất cả các chàng trai mặt mũi sáng sủa đều có thể vào lâu đài nói chuyện với công chúa. Chàng nào mà nói năng tự nhiên như ở nhà mình và hoạt bát nhất sẽ được lấy công chúa.
Ái chà chà! Thật là náo nhiệt! Các chàng trai lao vào, chen chúc nhau, nhưng suốt hai ngày chẳng một ai thành công cả. Ở ngoài phố thì anh nào cũng nói năng liến thoắng, nhưng một khi đã qua cửa lâu đài, trông thấy lính gác bận áo dát bạc, thấy quân hầu đeo tua rua vàng đứng trên cầu thang, khi bước vào các văn phòng sáng trưng, các anh chàng đâm hoảng và khi đến trước ngai vàng, nơi công chúa ngồi, thì chẳng nói gì hơn là lắp lại tiếng cuối cùng trong lời phán bảo của công chúa. Cách đối đáp ấy làm cho nàng chẳng thích thú chút nào. Có thể nói là các chàng đến cầu hôn ấy đều đã hít quá nhiều thuốc lào, nên ngây ngất như người say thuốc. Chỉ đến khi ra tới ngoài phố họ mới trở lại ba hoa như trước. Họ đông đến nỗi phải xếp thành một hàng dài từ cửa ô đến tận lâu đài.
Tôi bận ở đấy để xem họ. Họ chờ lâu đến nỗi phải chịu nhịn đói, nhịn khát, thế mà ở lâu đài người ta chẳng chịu cho họ lấy một cốc nước lã. Có anh mang theo bơ và bánh mì, nhưng chẳng chia sẻ cho ai cả. Những anh ấy nghĩ rằng: "Cứ để cho họ đói lả đi. Trông họ sẽ thảm hại và công chúa sẽ gạt họ ra".
- Nhưng còn Kay? - Giécđa hỏi - Kay có mặt ở đó không?
- Khoan tí đã! Giờ đến lượt Kay rồi đấy. Sáng ngày thứ ba, bỗng người ta thấy một câu bé chẳng có ngựa xe gì cả, vui vẻ đi bộ tới lâu đài. Mắt cậu ta lóng lánh như mắt cô vậy. Tóc cậu dài và rất đẹp, nhưng quần áo thì xấu xí.
- Kay đấy! Giécđa vui vẻ vỗ tay reo lên. Đúng là Kay rồi!
- Trên lưng cậu ta đeo một túi vải to.
- Không phải túi vải đâu, đấy là cái xe trượt câu ấy mang theo đi ra đi.
- Cũng có thể - Quạ đáp - Vì tôi không nhìn cậu ta kỹ lắm, nhưng cô bạn kể rằng khi vào lâu đài trông thấy lính gác mặc áo dát bạc và lên thang gác gặp quân lính hầu đeo tua rua vàng cậu ta không hề ngạc nhiên. Cậu ta chào họ và bảo: "Đứng ở cầu thang như các anh thì chán chết. Tôi thì tôi thích vào trong nhà hơn." Các phòng đều sáng choang, một đoàn các quan lớn, quan bé đi chân không, tay bưng những cái khay bằng vàng. Giày của Kay khua lộp bộp, nhưng cậu chẳng rối trí chút nào.
- Đúng là Kay rồi, Giécđa nói, tôi biết cậu ta có đôi giày mới. Đã có lần cậu ta khua lộp bộp đôi giày ấy trong nhà bà nội.
- Đúng, đúng, đôi giày khua lên lộp cộp!- Quạ nói- Anh chàng đi thẳng đến chỗ công chúa. Nàng ngự trên một viên ngọc to bằng chiếc guồng quay sợi. Các mệnh phụ trong triều cùng đám thị tỳ lớn bé, các quan lớn cùng đám thị vệ và lính hầu đủ các cỡ. Có cái lạ là càng đứng gần cửa ra vào, xa công chúa họ lại càng vênh váo. Một tên thị vệ hạng bét, đi giày băng túp, vác mặt lên với một vẻ kiêu căng, rất khó coi.
- Trông đáng ghét quá nhỉ? - Giécđa nói - Nhưng còn Kay thì sao? Bạn tôi có làm vừa lòng công chúa không?
- Nếu tôi mà cũng là quạ thì dù đã đính hôn với kẻ khác, tôi cũng chiếm được công chúa, chắc chắn là Kay cũng nói năng hoạt bát chẳng kém gì tôi, tuy rằng tôi nói tiếng nhà quạ. Cậu ta rất bình tĩnh và rất đáng yêu. Cậu ta không đến để cầu hôn mà chỉ đến để xem công chúa thông thái đến mức nào. Cậu ta nhận thấy công chúa thông thái thật và công chúa cũng nhận ra cậu ta thông minh có thừa.
- Đúng là Kay quá đi rồi! Cậu ta học giỏi đến nỗi đã làm tính nhẩm và làm những bài toán đố có ba phép tính. Quạ hãy vui lòng dẫn tôi đến lâu đài.
- Chẳng dễ đâu - Quạ đáp - Làm thế nào mà vào đấy được kia chứ? Tôi sẽ nói chuyện với cô bạn tôi xem. Chắc chắn là cô ta sẽ hiến cho chúng ta một mưu kế gì đấy. Tôi cũng phải nói để cô biết rằng: một em bé như cô chẳng khi nào được phép vào lâu đài đâu.
- Thật thế ư? Kay mà biết tôi ở đây thì chắc là cậu ta sẽ ra đón tôi ngay.
- Đợi tôi ở cái cột cây số này nhé! - Quạ nói, lắc đầu, rồi bay đi.
Mãi đến chiều tối quạ mới trở về và nói:
- Quạ! Quạ! Tôi mang đến cho cô lời chào của cô bạn tôi và đây là một chiếc bánh nhỏ bạn tôi đã lấy trong bếp để biếu cô. Chắc cô đói lắm rồi! Cô không có giày dép gì cả nên không thể đến lâu đài được đâu. Lính gác và quân hầu sẽ không cho cô vào đâu. Nhưng chớ có khóc! Rồi cô cũng sẽ vào được thôi. Cô bạn tốt của tôi có biết một gác con, bí mật, dẫn vào phòng ngủ và cô ta lại có thể mượn được chìa khoá buồng nữa.
Họ đi vào vườn, theo con đường lớn, lá rụng lả tả, và khi trong lâu đài đèn tắt hết, quạ dẫn Giécđa đến một chiếc cửa sau bỏ ngỏ. Giécđa lo sợ và nóng ruột, tim đập thình thịch, Em cảm thấy như sắp làm điều gì xấu, nhưng thực ra em chỉ muốn tìm gặp Kay. Phải, đúng là cậu ta rồi! Em nhớ lại đôi mắt thông minh và bộ tóc dài của Kay! Em cảm thấy Kay mỉm cười như là hai đứa đang ngồi chơi với nhau ở nhà, bên gốc cây hoa hồng. Chắc Kay sẽ sung sướng được gặp lại em, được biết rằng em đã phải đi không biết bao nhiêu là đường đất để tìm gặp Kay, được biết rằng ở nhà mọi người buồn bã như thế nào khi không thấy Kay về. Lòng em tràn đầy nỗi lo sợ lẫn vui sướng.
Họ đã tới thang gác. Nơi đó có một ngọn đèn đặt trên một cái tủ đựng bát đĩa. Cô ả quạ đậu dưới đất. Quạ quay đầu lại nhìn quanh quất trong lúc Giécđa lễ phép cúi đầu chào theo kiểu cách mà bà em đã dạy em.
- Anh chồng chưa cưới của tôi đã nói tốt về cô với tôi rất nhiều - Quạ cái nói - Cuộc đời của cô thật là cảm động. Cô hãy cầm lấy đèn, tôi sẽ đi trước. Chúng ta theo con đường thẳng này mà đi và như thế chúng ta sẽ chẳng gặp ai cả.
- Hình như có ai đến đằng sau kia - Giécđa nói.
Và quả thật có tiếng rít gần bên em. Giécđa thoáng thấy một đoàn ông lớn, bà lớn cưỡi những con ngựa chân thon, bờm phất phơ, đi săn thú.
- Đó chỉ là các thần mộng thôi - Quạ nói.
Giécđa và quạ tiến vào trong phòng thứ nhất căng toàn lụa đỏ và đính hoa giả trên tường. Có tiếng thần mộng vừa bay qua vừa rít lên, nhưng chúng bay nhanh đến nỗi Giécđa không nhìn thấy. Rồi họ vào các buồng, buồng nào cũng lộng lẫy cả. Họ vào buồng ngủ. Trần nhà như một cây cọ lớn, lá bằng thủy tinh. Giữa buồng có hai cái giường trông hệt như hai bông hoa huệ, mỗi cái đặt trên một cái bệ bằng vàng. Trên chiếc giường căng rèm trắng công chúa đang ngủ. Rất có thể là Kay ngủ trên chiếc giường căng rèm đỏ bên cạnh. Giécđa vạch rèm, và trông thấy một người nằm nghiêng, quay lưng ra ngoài, da ở gáy mãu hung hung. A! Đúng là Kay rồi! Cô kêu lên và đặt đèn cạnh giường. Có tiếng rít của các thần mộng cưỡi ngựa phi quanh phòng. Người nằm ngủ chợt tỉnh, ngẩng đầu lên… Không phải là Kay!
Hoàng tử chỉ giống Kay ở cái gáy mà thôi. Trông chàng trẻ và đáng yêu. Từ bên giường có rèm trắng công chúa ngó sang hỏi có chuyện gì xảy ra. Giécđa oà lên khóc, thuật lại tất cả chuyện đời mình và không quên kể tất cả sự giúp đỡ của đôi quạ.
- Cô bé đáng thương thay! Hoàng tử và công chúa đồng thanh nói và phán bảo đôi quạ rằng họ không giận gì quạ đâu, nhưng bận sau không được làm như vậy. Họ lại hứa sẽ thưởng cho cả hai con quạ.
Công chúa hỏi:
- Các ngươi muốn được tự do, hay là nhận chức quạ của gia và được hưởng các thức ăn thừa trong bếp?
Đôi quạ nghiêng mình đáp lễ và xin nhận chức quạ trong triều. Chúng nghĩ đến tương lai và tâu rằng về già, đời sống được bảo đảm là quý nhất!
Hoàng tử ngồi dậy, nhường giường cho Giécđa. Cô bé chắp tay lại, suy nghĩ: "Dẫu sao, người và vật cũng đều tốt bụng cả." Nói rồi em nhắm mắt, ngủ thiếp đi. Thần mộng lại trở lại và lần này họ biến thành những tiên đồng đang kéo một chiếc xe tuyết trong đó có Kay đang ngồi giơ tay vẫy chào Giécđa. Nhưng đó chỉ là mộng thôi, và khi Giécđa tỉnh giấc thì Kay, xe và tiên đồng đã biến hết.
Hôm sau, người ta mặc cho em toàn nhung gấm, lụa là, từ đầu đến chân. Người ta lưu em ở lại lâu đài để hưởng vinh hoa phú quý, nhưng em chỉ xin một chiếc xe nhỏ, một con ngựa và một đôi giày băng túp nhỏ. Em muốn băng qua thế giới bao la để tìm Kay.
Người ta cho em một đôi giày và một chiếc bao tay rất vừa vặn, và khi ra đi em thấy trước cửa một cỗ xe xong mã thếp vàng mới tinh. Gia huy của hoàng tử và công chúa lấp lánh trên xe. Người đánh xe, người hầu và lính hộ vệ, có cả lính hộ vệ theo xe, đều đội mũ bằng vàng. Hoàng tử và công chúa đặt Giécđa vào xe và chúc em đi đường bình an vô sự. Quạ cái, giờ đã thành hôn, tiễn chân cô trên ba dặm đường, và đậu ngay cạnh cô, vì quạ không muốn bay theo xe. Quạ đực, đậu trên cổng lâu đài, vẫy cánh chào từ biệt. Chú ta không ra tiễn được vì từ ngày nhận chức, chú ăn nhiều quá nên bị bệnh đau đầu trầm trọng. Bên trong xe xếp toàn bánh ngọt, và trên ghế có hoa quả và bánh mì.
- Đi nhé! Cầu chúa phù hộ cho em! Hoàng tử và công chúa reo lên.
Giécđa khóc oà lên, quạ cái cũng khóc theo. Đi được mấy dặm đường, quạ cũng tử biệt nốt. Cả hai đều buồn rười rượi. Quạ bay lên một cành cây và tiếp tục vỗ cánh cho đến lúc không còn trông thấy nữa.
Truyện thứ năm
Con gái quân cướp đường
Đến một khu rừng tối om, xe vẫn lấp lánh như cục than hồng. Một bọn cướp trông thấy, hoa cả mắt. Chúng reo lên:
- Vàng đấy! Vàng đấy!
Chúng lao ra, giữ lấy ngựa, giết chết lính hộ vệ, người hầu, xà ích và kéo Giécđa ra khỏi xe.
- Con bé này béo và khoẻ mạnh, tuyệt lắm! Ngậy như nhân hạt dẻ ấy!- Mụ hầu già của bọn cướp, có bộ râu dài, rậm và đôi lông mày rủ xuống tận mắt, reo lên. Trông nó như một con cừu béo ấy! Thịt nó chắc là ngon!
Nói rồi mụ rút con dao sáng quắc trông gớm chết ra.
- Ái! Ái! - Vừa lúc ấy mụ thét lên vì vừa bị đứa con gái bíu lấy cổ và cắn vào tai. Trông nó có vẻ dữ tợn và khoái trá.
- Con nhà hỗn nào! - Mụ mắng con và sắp sửa chọc tiết Giécđa.
- Để cho nó chơi với con!- Đứa con nói- Nó sẽ cho con cái bao tay và cái áo đẹp của nó. Nó sẽ ngủ chung với con.
Nói rồi nó lại ngoạm vào tai mẹ nó làm mụ giãy nảy lên. Bọn cướp cười ầm lên. Chúng nói:
- Trông mẹ con nhà nó khiêu vũ kìa!
Đứa con bọn cướp nói:
- Con muốn đi xe ngựa.
Bọn cướp để nó trèo lên với Giécđa, vì nó là một đứa trẻ bướng bỉnh thường được nuông chiều. Xe lao vào rừng, băng qua các gốc cây cụt và hồ ao. Con gái lũ cướp lớn bằng Giécđa, nhưng khoẻ mạnh hơn, vai rộng, tóc nâu, cặp mắt đen của nó có vẻ hơi buồn. Nó ôm ngang lưng Giécđa và bảo:
- Nếu tớ không giận đằng ấy thì chúng chẳng dám giết đằng ấy đâu. Hẳn đằng ấy là một công chúa?
- Không, Giécđa đáp, kể lại đời em và nói thêm rằng em rất yêu quý một cậu bé tên là Kay.
Con bé nghiêm nghị nhìn Giécđa. Nó lắc đầu và nói:
- Chúng nó không giết đằng ấy đâu! Chỉ khi nào tớ cáu với đằng ấy thì chính tớ sẽ giết đằng ấy.
Nói xong, nó lau nước mắt cho Giécđa và thọc hai tay vào cái bao mềm mại và ấm áp. Xe dừng lại. Cả bọn đã về tới lâu đài hầu như hoang tàn của bọn cướp. Quạ khoang và quạ đen từ các lỗ bay ra tứ tung. Lũ chó ngao to tướng nhảy cẫng lên. Mỗi con đủ sức nuốt chửng một người. Trong một góc nhà, bảy tám con ngựa thắng yên cương, sẵn sàng lên đường, buộc quanh cột nhà. Trên tường, binh khí rỉ nát, áo choàng rách mướp treo lộn xộn. Giécđa bước vào, con gái bọn cướp dắt tay em.
Lúc đầu em chưa phân biệt được gì cả và lo lắng đến nỗi chân bước không vững. Trong phòng lớn đầy khói, một đống lửa bốc cháy trên sàn nhà. Khói bốc nghi ngút lên trần nhà rồi loanh quanh tìm lối thoát ra ngoài. Bọn cướp nấu xúp trong một cái nồi đặt trên đống lửa và đang quay trên đó nào là thỏ rừng, nào là thỏ nhà, để nguyên con. Con gái bọn cướp nói với Giécđa:
- Đêm nay đằng ấy ngủ với tất cả bầy súc vật xinh xinh của tớ.
Ăn uống xong, chúng nằm lăn trong một góc nhà lót rơm. Bên trên chỗ nằm có hàng trăm chim bồ câu đậu trên giá và que bắc ngang. Hình như chúng đang ngủ, nhưng khi hai đấ bé đến thì chúng ngẩng đầu lên nhìn.
- Tất cả bầy chim là của tớ - Con bé nói.
Nó bắt một con chim gần đó, tóm lấy chân và lắc đến nỗi chim đập cánh phành phạch.
- Hôn nó đi! - Con bé reo lên và quẳng chim vào mặt Giécđa.
- Đây là đôi bồ câu rừng mất dạy - Con bé nói tiếp và chỉ vào những thanh sắt chắn ngang miệng một cái hốc trên tường. Không nhốt chúng lại là chúng chuồn ngay! Và đây là em bé yêu của tớ.
Nó vừa nói vừa nắm lấy sừng một chú nai, có chiếc vòng đồng đeo cổ, bị buộc gần đấy. Đó là một con nai già có đôi mắt hiền từ và đang nhìn đứa con gái lũ kẻ cướp như có vẻ muốn van xin nó tha tội. Lông nai đã gần bạc hết và đôi chỗ lông rụng hết, trông thấy cả da. Trông nó người ta có thể đoán rằng nó đã lang bạt nhiều nơi và đã từng trải qua nhiều cơn đau khổ. Con gái bọn cướp lại nói:
- Con vật này cũng phải buộc cẩn thận, nếu không nó chuồn mất! Tối nào tớ cũng cù nó bằng mũi dao găm làm cho nó hoảng lên đến là hay.
Nói đoạn, con bé rút ở khe tường ra một con dao găm và dứ vào cổ nai. Con vật khốn khổ lồng lộn lên làm con bé cười sằng sặc. Rồi chúng lên giường ngủ.
Lúc đầu Giécđa nằm co ro trong một góc. Con bé hỏi, giọng hơi sẵng:
- Sao đằng ấy tránh tớ thế? Đằng ấy sợ à? Lại gần đây nào?
Giécđa hơi sợ, hỏi:
- Cậu định dắt cả dao găm đi ngủ à?
- Tất nhiên - Con gái bọn cướp đáp - Ai biết trước được chuyện gì có thể xảy ra trong đêm hôm. Nhưng thôi, hãy kể chuyện Kay cho tớ nghe và cho tớ biết tại sao cậu ta lại đi chu du khắp thiên hạ như thế?
Giécđa mải mê thuật lại chuyện của em không quên một chi tiết, để khỏi phải nghĩ đến cái nơi khủng khiếp mà tai hoạ đã dẫn em đến, và trong khi kể những nỗi lo buồn đã qua, em có thể tạm quên những mối lo hiện tại. Giécđa kể lể rất dài, dài lắm. Đàn bồ câu vẫn gù trong chuồng, còn các chim khác đã ngủ cả. Con gái lũ kẻ cướp một tay quàng vào cổ Giécđa, tay kia cầm dao găm, cũng ngủ nốt. Nhưng Giécđa không sao chợp mắt được. Em băn khoăn không biết rằng chúng có để em sống hay không hay là chúng sẽ giết em. Bọn kẻ cướp ngồi quanh đống lửa uống rượu và ca hát. Mụ hầu cũng say khướt, ngã sấp ngã ngửa, Giécđa sợ run lên. Đàn bồ câu nói với em:
- Gù! Gù! Chúng tôi đã trông thấy Kay. Một con gà trắng mang xe trượt cho cậu, còn cậu thì ngồi trong xe của Bà chúa tuyết, xe chạy qua rừng nơi chúng tôi làm tổ: nữ chúa hà hơi vào chúng tôi làm chết rét hết tiệt, chỉ còn sống sót có hai đứa thôi. Gù! Gù!
- Này các bạn trên kia, nói gì thế? - Giécđa reo lên - Bà chúa tuyết đi đâu rồi? Các bạn có biết gì không?
- Chắc hẳn bà ta đi đến xứ Lapôni rồi, vì nơi ấy có băng tuyết quanh năm. Cứ hỏi bác nai bị buộc ở dưới ấy thì biết.
- Quanh năm chỉ toàn băng và tuyết thôi, thật là thích! - Nai nói - Ở đấy được vùng vẫy tự do trong những thung lũng rộng rãi và sáng loáng. Chính đấy là nơi Bà chúa tuyết dựng lều vải vào mùa hè, nhưng lâu đài của bà ta ở mãi trên cực bắc, trên hòn đảo mà người ta gọi là đảo Spitbe.
Giécđa lẩm bẩm:
- Kay, Kay!
- Nằm im - Con gái bọn cướp dọa - Nếu không tớ cho một nhát vào bụng bây giờ.
Sáng dậy, Giécđa kể cho cô bạn những lời bồ câu nói tối qua. Con gái bọn cướp trở nên nghiêm nghị, vừa lắc đầu vừa nói:
- Biết thế thì ích gì? Biết thế thì ích gì?
Giécđa hỏi nai:
- Nai có biết xứ Lapôni ở đâu không?
- Còn ai biết nơi ấy hơn tôi nữa? - Nai đáp - Chính tôi sinh trưởng ở đấy và sống khá lâu trên cái đất phủ đầy tuyết ấy.
- Thế Bà chúa tuyết ở gần Lapôni hay sao?
- Tôi chưa hề trông thấy Bà chúa tuyết, mặc dù quê tôi tuyết phủ quanh năm và là một xứ sở đẹp nhất thế giới.
- Thôi đi, lão già lẩm cẩm - Con gái lũ kẻ cướp gạt đi - Ta có hỏi cảm tưởng của nai về xứ Lapôni đâu? Im đi, không ta sẽ cứa cổ đấy!
Và thấy nai rùng mình, con bé hỏi tiếp:
- Thôi được, nai biết rõ xứ Lapôni như thế, liệu nai có thể dẫn đường cho một người đi đến đó không?
- Dù có mù cả hai mắt tôi cũng dẫn đến nơi đến chốn được, vì nơi ấy là quê hương tôi, chỉ hít không khí ở đấy tôi cũng tìm được hướng đi.
- Này, đằng ấy! - Con bé nói với Giécđa - Người của ta đi cả rồi. Còn lại mẹ tớ, nhưng gần sáng thì mẹ tớ uống một chai bố rồi đi ngủ. Tớ muốn giúp cậu một điều.
Nó nhảy ra khỏi giường, ôm lấy cổ mẹ nó, giật bộ ria mép của mụ và nói:
- Chào con dê già của tôi!
Con gái nói với mẹ như vậy thật là vô lễ. Nhưng bạn đừng tưởng rằng mụ ấy sẽ vồ lấy con nện cho một trận. Mụ chỉ cười gằn, lầu bầu một tí thôi, rồi mụ búng vào mũi con bé làm cho mũi nó tím bầm lên, nhưng đó không phải là mụ phạt nó mà là búng yêu nó đấy. Sau đó, mụ vớ chai rượu tợp một hớp, hai hớp, cuối cùng mụ ngơ ngác nhìn xung quanh, rồi nằm xoài ra đánh một giấc. Mụ còn mở mắt ra vài ba lượt nữa, rồi mụ ngáy inh nhà, đúng như con bé đã nói lúc nãy. Con gái lũ cướp cầm tay Giécđa, nhét dao vào túi, và mở hé cửa nhìn ra ngoài xem có ai không.
- Cẩn thận bao giờ cũng hơn.
Nó nói thế rồi quay lại bảo Giécđa: - Lại đây với tớ, đằng ấy sẽ rất ngạc nhiên.
Đến gần con nai nó bảo:
- Tớ cũng muốn giữ nai ở đây để vuốt ve nai bằng mũi dao của tớ, vì nai trông hay tệ. Nhưng thôi, tớ sẽ thả nai ra để nai có thể phóng về Lapôni. Nhưng nai phải chạy thật nhanh và cõng cô bé này đến lâu đài Bà chúa tuyết, nơi cậu Kay hiện đang ở. Nai đã nghe rõ chuyện cô ấy rồi. Cô ấy nói to thế ai chả nghe thấy? Nai lại thính tai hơn ai hết.
Nai sung sướng nhảy cẫng lên. Con gái bọn cướp nhấc Giécđa lên lưng nai và buộc lại cẩn thận. Nó còn cho cô một cái gối để ngồi lên trên.
- Đằng ấy đi giày băng túp lót lông, như vậy là tốt lắm vì trời sẽ rét, nhưng cái bao tay thì tớ lấy. Vả chăng, đằng ấy cũng chẳng sợ bị cóng tay đâu. Đây là đôi găng lót lông của mẹ tớ, đằng ấy xỏ vào thì đến tận khuỷu tay đấy. Nào mang găng vào! Giờ thì đằng ấy giống bà mẹ xấu xí của tớ rồi đấy, ít nhất cũng giống ở đôi tay.
Giécđa khóc oà lên vì sung sướng.
- Tớ chẳng thích đằng ấy khóc đâu!- Con bé nói- Phải tươi tỉnh lên chứ! Này! Đây là bánh mì và một miếng dăm bông. Đằng ấy sẽ không sợ chết đói đâu.
Nói rồi nó buộc hai thứ ấy vào lưng nai, mở cửa, nhốt lũ chó lại, lấy dao cắt thừng buộc nai và nói:
- Chạy đi, và nhớ trông nom cô bé đấy nhé!
Giécđa chìa đôi tay đeo găng cho con gái lũ kẻ cướp và nói vài lời từ biệt. Nai lao vào rừng, nhảy qua bụi rậm, rễ cây, vượt qua đồng ruộng và đầm lầy. Chó sói và lũ cáo hú lên: "Hú! Hú!" nghe như tiếng hắt hơi dồn dập trong không trung.
Nai nói: - Trông kìa! Bắc cực quang quen thuộc của tôi đang loé sáng khắp bầu trời.
Nai chạy cả ngày lẫn đêm. Giécđa ăn hết cả bánh, hết cả dăm bông và cuối cùng, nai đã đưa em tới Lapôni.
Truyện thứ sáu
Bà lão xứ Lapôni và bà lão người Phần Lan
Một túp nhà nhỏ, tiều tuỵ và yên tĩnh, mái úp xuống tận đất, cửa thấp đến nỗi ra vào phải bò sát đất. Trong nhà chỉ có một bà lão người xứ Lapôni đang nướng cá trên chiếc đèn đốt bằng mỡ hải cẩu. Nai kể cho bà nghe chuyện của Giécđa, nhưng trước đó nai đã kể hết chuyện của nai, vì nai cho rằng chuyện của nó quan trọng hơn. Giécđa bị rét cứng cả người nên không nói được.
- Các bạn còn phải đi xa hơn nữa, và cụ Lapôni nói. Các bạn còn phải đi qua ít ra là một trăm dặm mới đến đất Phần Lan, nơii Bà chúa tuyết ở, nơi mà chiều chiều bà ta đốt lên một bó đuốc đỏ rực. Tôi sẽ viết cho các bạn vài chữ lên một con cá khô, vì tôi không có giấy. Các bạn sẽ đưa thư ấy cho bà cụ người Phần Lan ở trên ấy và bà cụ sẽ chỉ dẫn cho các bạn rõ hơn tôi.
Khi Giécđa đã sưởi ấm và ăn uống xong, bà cụ viết mấy chữ vào con cá khô, dặn dò Giécđa giữ cẩn thận, buộc em bé lên lưng nai và nai lại tiếp tục chạy. Hú! Hú! Vẫn có tiếng hú trong không trung. Bắc cực quang toả ánh sáng xanh nhạt suốt đêm khắp vòm trời. Nai và Giécda đi tới đất Phần Lan và gõ vào ống khói một cái nhà không có cửa.
Trong nhà nóng đến nỗi bà cụ ở đó chỉ mặc một bộ quần áo mỏng manh. Người bà bé nhỏ, da mặt nhăn nheo. Bà cởi quần áo cho Giécđa, tháo găng và giày băng túp của em ra, rồi đặt một mẩu nước đá lên đầu chú nai. Bà đọc những chữ viết trên con cá khô, đọc đi đọc lại ba lần cho thuộc lòng, rồi vứt cá khô vào nồi, vì cá ấy ăn vẫn ngon và bà ta chẳng hề hao phí một tí gì. Nai kể chuyện mình trước rồi đến chuyện Giécđa. Bà cụ Phần Lan chớp chớp đôi mắt thông minh, nhưng chẳng nói gì. Nai nói:
- Cụ biết rất nhiều điều. Người ta đồn rằng cụ có thể buộc gió bốn phương bằng một sợi chỉ. Nếu cụ trao sợi chỉ ấy cho một hoa tiêu thì anh ta chỉ cởi một nút là thuyền anh ta thuận buồm xuôi gió, cởi nút thứ hai gió thổi mạnh, cởi nút thứ ba và thứ tư trời sẽ làm giông bão, lật đổ nhào các khu rừng. Cụ hãy cho cô bé này uống một thứ thuốc gì để cô ta có sức mạnh bằng mười hai ngàn người, đủ sức vật ngã Bà chúa tuyết.
- Khỏe bằng mười hai ngàn người ư? - Bà cụ Phần Lan đáp - À, mà đúng thế! Đúng là phải khỏe đến thế.
Bà đi về phía một cái giá có nhiều ngăn, lấy một tấm da khô cuộn tròn, rồi mở ra xem. Mồ hôi long lanh trên trán, bà cụ đọc trên tấm da những chữ kì dị viết ở đó. Nai nằn nì cầu xin bà cụ ban phép cho Giécđa và cả Giécđa nữa cũng khóc sướt mướt, nhìn bà cụ bằg đôi mắt cầu khẩn đến nỗi bà ta lại chớp mắt, lôi nai vào một góc nhà, vừa thì thầm vừa đặt nước đá lên đầu nai:
- Quả là cậu bé Kay ở nhà Bà chúa tuyết thật và được ở đấy cậu rất lấy làm mãn nguyện. Sở dĩ như vậy là vì cậu ta bị một mảnh gương quỷ bắn vào tim và một mảnh bắn vào mắt. Trước hết cần phải lấy được những mảnh gương ấy ra, nếu không cậu ta chẳng bao giờ trở lại bình thường và Bà chúa tuyết vẫn mê hoặc được cậu ta.
- Cụ thử nghĩ xem cụ có thể cho cô bé Giécđa một bảo bối gì có thể chiến thắng được phép quỷ ấy không?
- Ta không thể cho cô ấy quyền lực nào lớn hơn cái quyền lực mà cô ấy đã có sẵn. Nai không thấy cô ta đã làm được những gì ư? Nai không thấy rất nhiều người và nhiều súc vật đã làm theo ý cô ta sao? Chúng ta chẳng cần phải giúp cô ta cái sức mạnh mà cô ta đã có sẵn trong trái tim, trong tấm lòng trung hậu và trong trắng của cô ta. Nếu cô ta không tự mình đến nơi ở của Bà chúa tuyết để lấy những mảnh gương quỷ trong mắt và tim của Kay thì chẳng có ai làm được việc ấy. Vườn của Bà chúa tuyết cách đây hai dặm đường. Nai có thể dẫn cô ta đến đấy được. Nai phải dừng ở một bụi cây lớn, có quả đỏ xung quanh toàn tuyết phủ. Nai chỉ đưa Giécđa đến đấy thôi, rồi dừng lại chờ Giécđa.
Bà cụ phúc hậu đặt Giécđa lên mình nai, nai phóng đi rất nhanh. Bỗng Giécđa kêu lên:
- Ôi thôi, tớ quên mất giày và găng tay rồi!
Cái rét cứng người làm cho cô bé nhớ đến găng và giày. Nhưng nai không dừng lại. Nó chạy đến bụi cây lớn có quả đỏ, hôn vào môi Giécđa, nước mắt nó ứa ra chảy trên má em bé. Giécđa tiếp tục đi một mình, chân không giày, tay không găng, giữa đất Phần Lan phủ đầy băng tuyết.
Em ra sức chạy. Em gặp mặt đám bông tuyết lớn, tuyết không rơi từ trên trời xuống. Và lúc này bắc cực quang còn đang chiếu sáng, bông tuyết bay là là mặt đất, càng tới gần lại càng lớn dần. Giécđa chợt nhớ lại ngày nào nhìn qua kính hiển vi ở nhà, bông tuyết phình ra rất lớn, nhưng chẳng thấm gì những bông này, nom lớn hơn, đáng sợ và y như những động vật ấy. Đó là đội tiền vệ của Bà chúa tuyết! Chúng có những hình thù rất là kỳ quặc. Một số khác giống như rắn rết đang ngỏng đầu lên, còn các bông khác trông giống như một bầy gấu lớn, gấu con, lông dựng ngược. Tất cả đều trắng toát, tất cả đều là những bông tuyết sống.
Giécđa đọc bài kinh cầu nguyện. Rét đến nỗi em trông thấy cả hơi thở ra. Hơi thở bốc lên như đám khói, càng ngày càng dày đặc và biến thành những tiên đồng, trước nhỏ tí hon, sau lớn dần lên rồi đặt chân xuống đất. Tất cả bọn họ đều đội mũ sắt, tay cầm giáo, tay mang mộc. Càng lâu đội ngũ tiên đồng càng đông mãi lên và đến khi Giécđa đọc xong bài kinh nguyện thì có tới một đạo quân đứng quanh em. Họ cầm giáo đập vào bông tuyết làm chúng tan ra thành muôn mảnh.
Nhờ thế Giécđa có thể ung dung tiến về phía trước. Các tiên đồng vỗ vào chân, vào tay em cho em đỡ rét. Và thế là em đi tới lâu đài của Bà chúa tuyết.
Nhưng chúng ta cũng cần biết Kay hiện nay ra sao rồi. Cậu ta không hề nghĩ đến Giécđa và nhất là cậu không thể ngờ rằng em đã đến bên ngoài lâu đài.
Truyện thứ bảy
Việc xảy ra ở lâu đài Bà chúa tuyết và những việc tiếp nối
Tuyết rơi dày đặc làm thành những bức tường bao quanh lâu đài. Cửa ra vào và cửa sổ là những lỗ hở, qua đó gió bấc đang rít lên. Có tới hàng trăm phòng, phòng nào cũng có tuyết rơi lả tả. Phòng lớn nhất rộng có tới hơn một trăm dặm. Bắc cực quang chiếu sáng khắp nơi. Tất cả các phòng đều trống rỗng, lạnh buốt và lấp lánh. Nơi này chẳng bao giờ có hội hè, chẳng bao giờ có lấy một cuộc khiêu vũ nhỏ, một buổi hoà nhạc, hoặc một tiệc trà. Trong một gian phòng trống rỗng và lớn nhất có một cái hồ đóng băng. Mặt hồ bị vỡ thành ngàn mảnh, nhưng các mảnh đều giống nhau như một tác phẩm nghệ thuật. Giữa phòng là nơi Bà chúa tuyết hay ngự, khi bà ta ở nhà. Bà ta thường nói rằng bà ngồi trên tấm gương của trí thông minh và nó là hạnh phúc lớn nhất trên đời này.
Ở nơi đó Kay tím xậm đi vì rét, nhưng em không nhận thấy điều đó vì tim em đã đóng băng rồi và em không nhận biết được thế nào là lạnh nữa. Em lấy những mảnh băng nhỏ ghép thành đủ các hình và còn ghép thành chữ, thành vẫn nữa. Em gọi trò chơi ấy là một "trò chơi thông minh", có một tầm quan trọng đặc biệt, vì em vẫn bị mảnh gương quỷ nằm trong mắt mê hoặc. Nhưng em không tài nào xếp được hai chữ mà em mong muốn. Đó là hai chữ: Vĩnh cửu. Bà chúa tuyết nói:
- Nếu em xếp được hai chữ ấy, em sẽ tự làm chủ được mình. Ta sẽ cho em cả thế giới và một đôi giày trượt tuyết mới tinh. Chúc em thành công. Giờ ta phải bay xuống xứ nóng, đến núi lửa Etna và Vêduyvơ. Ta muốn nhuộm trắng chúng nó một chút! Như thế hợp với chúng hơn, hợp với những vườn chanh và vườn nho mọc trên sườn núi.
Bà chúa tuyết bỏ đi và Kay ở lại một mình trong gian phòng trống rỗng toàn băng giá. Em trầm ngâm nhìn những mảnh băng. Em như nghe thấy thân thể đang gãy răng rắc. Cứ ngồi im lặng và cứng nhắc như vậy rất có thể em cũng biến thành băng!
Chính lúc ấy Giécđa bước qua cửa lớn vào lâu đài. Gió thổi như cào vào mặt em, em đọc bài kinh nguyện ban tối, gió dịu đi. Em bước vào gian phòng lớn lạnh lẽo, trống rỗng và trông thấy Kay. Em nhận ra cu cậu, bá cổ, ôm chặt lấy cậu ta mà reo lên:
- Kay, Kay yêu của mình! Thế là cuối cùng mình đã tìm thấy cậu!
Nhưng Kay vẫn trơ trơ, cứng nhắc, và lạnh lẽo. Giécđa oà lên khóc, những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên ngực và thấm vào tận tim Kay. Nước mắt làm tan nước đá và đánh tan cả mảnh gương quỷ. Kay ngắm nhìn Giécđa. Em hát bài kinh nguyện:
Hồng mọc đầy thung lũng
Nơi cậu bé Giêxu đang phán bảo ta.
Bỗng nhiên Kay ứa nước mắt. Em khóc đến nỗi mảnh gương quỷ trôi ra ngoài. Em nhận ra cô bạn gái, say sưa nhìn Giécđa và vui mừng reo lên:
- Giécđa! Bé Giécđa dịu hiền của mình! Cậu đi đâu từ bấy lâu nay thế? Còn mình, tại sao mình lại ở nơi này nhỉ?
Cậu nhìn xung quanh và nói tiếp:
- Ở đây sao mà rét đến thế! Sao mà rộng lớn và trống trải đến thế!- Cậu bíu chặt lấy Giécđa đang hết cười lại khóc vì sung sướng. Giây phút ấy cảm động đến nỗi cả các mảnh băng vỡ cũng nhảy nhót, vui mừng. Khi đã mệt nhoài, chúng mới chịu nằm im. Nhưng ô kìa! Kì diệu thay, chúng nằm xuống thành đúng hai chữ "Vĩnh cửu" mà bà chúa tuyết đã đề ra. Thế là Kay đã tự chủ được mình. Bà chúa tuyết sẽ phải tặng cậu cả thế giới và đôi giày trượt tuyết mới tinh.
Giécđa ôm hôn Kay làm đôi mắt Kay ửng đỏ lên như hoa, em hôn lên mắt Kay, mắt Kay ánh lên như đôi mắt của em, em hôn chân tay Kay, chân tay Kay trở lại mạnh mẽ như cũ. Hai đứa trẻ không cần đợi Bà chúa tuyết về vì hai chữ Vĩnh cửu kia đã chuộc quyền sống tự do cho Kay.
Hai em dắt tay nhau và thoát ra khỏi toàn lâu đài rộng lớn. Các em nói chuyện về bà của các em, về hai cây hồng trồng sát mái nhà. Các em đi đến đâu thì ở đấy gió tắt và mặt trời lại lấp lánh. Khi các em tới bụi cây có quả đỏ, nai vẫn chờ các em. Đứng bên nai, có một con nai cái, vú căng sữa, đang cho đàn con bú và đang hôn lên mõm chúng. Trước hết Kay và Giécđa đến nhà bà cụ Phần Lan, hai em sưởi ấm và hỏi thăm bà đường về. Sau đó hai em đến nhà bà cụ Lapôni, bà may quần áo mới và chữa lại xe trượt tuyết cho các em.
Vợ chồng nhà nai chạy theo xe lên tận biên giới. Khi nhìn thấy ngọn cỏ đầu tiên nhô lên khỏi mặt đất, các em từ biệt đôi nai và bà cụ Lapôni. Tiếng hót của những con chim đầu tiên mà các em trông thấy vang lên. Trong rừng mầm non đã nhú mọc. Một con ngựa đang chạy tới, chính là một trong hai con đã kéo cỗ xe thếp vàng, cưỡi trên mình ngựa là một êm bé đội mũ màu đỏ rực, mỗi tay chĩa ra đằng trước một khẩu súng ngắn. Đó là đứa con gái lũ cướp, chán cảnh nhà, định đi về phương Bắc, rồi khi nào không thích ở đấy nữa thì sẽ đi nơi khác. Hai em bé nhận ra nhau, vui mừng khôn kể xiết.
- Đằng ấy quả là một đứa bé liều lĩnh, có một không hai - Đứa con gái lũ cướp nói. Rồi xem đằng ấy bắt người ta theo khắp thiên hạ như thế này phỏng có ích gì không?
Giécđa tát yêu vào má cô bạn và hỏi tin tức của công chúa và hoàng tử.
- Họ đã đi du lịch ra nước ngoài, sau khi tiễn chân Giécđa đi Lapôni được vài ngày. Từ dạo ấy chẳng ai biết tin tức gì về họ và cũng chẳng ai biết khi nào họ trở về.
- Còn quạ đen thì sao? - Giécđa hỏi.
- Quạ đã chết rồi, vợ hắn để tang bằng một sợi len đen quấn vào chân. Sau khi chồng chết, quạ cái tỏ vẻ thương xót lắm, nhưng chẳng qua là để che mắt thế gian mà thôi!
- Quạ đen tội nghiệp của tôi! - Giécđa nói - Quạ đối với tôi rất tốt. Quạ đã chết sớm vì quen sống tự do ngoài trời, không quen gò bó trong bốn bức tường.
- Dào ôi! Đứa con gái lũ cướp nói - Quạ chết vì bội thực đấy thôi! Nhưng thôi, để chuyện ấy đấy! Hãy kể cho tớ nghe cậu làm thế nào mà tìm được Kay!
Giécđa và Kay tranh nhau cùng kể. Nghe xong đứa con gái lũ cướp nắm tay hai em và nói:
- Được rồi! Hoan hô, tốt lắm!
Nó hẹn rằng: Nếu một ngày kia có dịp đi qua thành phố nơi hai em ở, nó sẽ đến thăm các em. Nói rồi nó thúc ngựa lên đường.
Kay và Giécđa nắm tay nhau bước đi. Lúc này đã sang xuân, khắp nơi cây cỏ xanh tươi, trăm hoa đua nở. Chuông nhà thờ ngân vang. Hai em nhận ra những tháp cao của thành phố, nơi hai em ở trước đây. Hai em đi vào thành, về đến trước cửa nhà, leo lên thang gác cao ngất và bước vào phòng, tất cả mọi vật đều y nguyên như cũ. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn kêu tích tắc. Đôi kim vẫn quay đều.
Nhưng lúc vào nhà, các em nhận thấy mọi người đã già đi. Hồng vẫn nở hoa gần nơi cửa sổ và ở đó vẫn còn những chiếc ghế nhỏ. Mỗi em ngồi vào ghế của mình và nắm lấy tay nhau. Như vừa qua cơn ác mộng, các em đã quên những vật kỳ lạ ở toà lâu đài băng giá và đìu hiu của Bà chúa tuyết. Bà các em ngồi dưới ánh nắng, cất cao giọng đọc trong Kinh thánh: "Nếu ngươi không trở thành những đứa trẻ, người sẽ không được đi vào giang sơn của chúa!"
Kay và Giécđa nhìn nhau. Đến lúc ấy các em mới hiểu thấu ý nghĩa của câu thánh thi:
Hoa hồng mọc đầy thung lũng
Nơi cậu bé Giêxu đang phán bảo ta.
Giờ đây cả hai em đã lớn, nhưng tâm hồn các em vẫn là tâm hồn trẻ con. Và mùa hạ sáng rực lên, mùa hạ nóng bức và nhuần hậu.