Thần Set đố kị người em Usir của mình đến mức đã có một hành động đê tiện. Thần dã găm Usir trong một cái hòm và ném nó ra sông Nile.
"Oiiiii", Aset gào lên. Nàng chạy dọc theo bờ sông, cánh tay vươn ra vô vọng. Nàng phải giữ được nó, nàng phải kéo chiếc hòm về an toàn. Nàng hình dung chồng mình bị sa bẫy bên trong, khiếp hãi. Nàng chạy.
Nhưng dòng nước hối hả chảy theo hướng bắc, cuốn thần trôi phăng phăng ra biển. Và gió thì thổi về phía nam, đe dọa mỗi bước chân Aset. Nàng chạy khó khăn, chỉ thấy những con sóng ngầu bọt trắng xóa của dòng sông hoang dại chảy ào ào. Nàng chạy càng khó hơn, không nghe thấy gì ngoài tiếng gió gào rít hai bên tai tê cóng. Chiếc hòm đã mất dạng! Aset càng phải chạy nhanh hơn. Đó là chồng nàng – tình ỵêu của đời nàng!
Aset chạy suốt ngày hôm đó, suốt cả đêm, cả ngày hôm sau. Hai bàn chân chảy máu. Hai ống chân đau nhức. Khi nàng ra đến bờ biển, nàng cứ chạy tới chạy lui, khẩn gọi dòng nước xanh, lục, đỏ tía, nàng cứ gọi cứ gọi. Nàng giật tóc. Nàng chộp một cái vỏ diệp và nàng cạo lông mày. Nàng tự đấm ngực mình.
Mọi người xúm quanh vị nữ thần, người đàn bà bị tước mất tình yêu, trơ trọi, không biết làm gì hơn là phủ phục trên bờ biển đợi cho đến khi hết cơn choáng váng để lại hi vọng, hi vọng chồng mình tìm cách thoát ra khỏi chiếc hòm trước khi ngạt thở.
Trong lúc đó, chiếc hòm mang theo Usir bị cuốn ra giữa biển Địa Trung Hải bao la và trôi nổi trên wadj wer – cái màu xanh lục lớn lao ấy – một chiếc thuyền nhỏ không mục đích, không bánh lái, không buồm, cho đến khi dòng chảỵ cuối cùng lại đưa nó ra ngoài khơi. Nhưng không phải trở lại cửa sông Nile nơi nàng Aset khốn khổ đang than khóc, không. Chiếc hòm hướng xa hơn về phía đông, gần thành phố Kubna trong vùng đất Kenaani. Bờ biển ở dó dày đặc những thân sậy cứng chìa ra. Giống như các xúc tu, chúng đan cài vào nhau khắp xung quanh, bên trên, bên dưới và kéo chiếc hòm vào, vuốt ve bao bọc quanh nó. Bỗng một cây sậy sáp vào một cây sậy khác và bám lây nó dai dẳng đến nỗi hai cây sậy hòa nhập vào nhau, rồi lại một cây sậy khác hòa nhập vào chúng, và chẳng mấy chốc cả đám sậy chỉ còn là một cây bụi nhấn chìm chiếc hòm. Và rồi cây bụi lớn lên.
Điều thần diệu này không phải ngày nào cũng xảy ra – và chắc chắn đó là điều thần diệu. Vì bên trong chiếc hòm là thi thể của thần Usir, người đã biết làm thế nào để đem lại sự phì nhiêu cho trái đất, người có thể làm cho mọi thứ phát triển. Vì thế có thể chính quyền năng đó đã chuyển từ thần sang chiếc hòm khi thần trút hơi thở cuối cùng. Ai mà biết được? Dẫu gì thì cây bụi ấy cũng lớn nhanh hơn bất cứ cây bụi nào từng mọc trước đó, và trở thành một cây tuyết tùng rất lớn, cao tới 40 mét, lúc lỉu những quả nón. Những con chim dầu rìu kéo đến hàng đàn, thỏa thuê tắm cát dưới gốc cây và làm tổ giữa những chiếc lá kim màu xanh ánh bạc.
Cây tuyết tùng hùng vĩ có thể nhìn thây từ xa, nhưng mùi của nó thậm chí còn được ngửi thấy trước cả khi trông thấy, vì nó tỏa hương thơm ngào ngạt, đầy quyến rũ. Chẳng bao lâu sau nhà vua cũng nhận ra, và ngài gọi hoàng hậu đến bên để hít ngửi mùi thơm. Nàng ngất đi khi ngửi mùi hương cây tuyết tùng. Số là, nàng muộn mằn mãi không có thai và nàng vẫn hay bị ngất.
Cái cây thật uy nghi và do đó không thể có chuyện khác được: Nó phải làm vinh dự cho cung điện của nhà vua. Cần phái ngay một tốp thợ đến cưa gốc cây rồi kéo về cung điện, để biến cái cây thành một chiếc cột đẹp mà mọi người đều có thể chiêm ngưỡng. Và họ đã làm thế. Chiếc cột cho họ cảm giác yên bình sao đó, nó khiến người ta cảm thấy yên tâm rằng mọi thứ trên đời này vẫn ổn thỏa. Bằng cách đó nó dường như được sùng bái. Nhưng vẫn không ai đoán được rằng bên trong thân cây có chiếc hòm chứa Usir.
CCI18122015_0043Kiệt súc vì đau buồn, Aset có linh cảm lũ chim biết rõ nhất. Nàng đi theo tiếng gọi của chúng đến cung điện Kubna, nơi Usir chồng nàng được giấu bên trong chiếc cột tuyết tùng.
Trở lại với bờ biển Ai Cập, nơi nữ thần Aset nằm tuyệt vọng. Tuần trăng đã đi qua và nàng vẫn nằm đấy bất động. Nhưng giờ nàng được đánh thức dậy khỏi trạng thái ngơ ngẩn do nỗi đau mòn mỏi bởi những tiếng kêu bu bu bu, rồi lại bu bu bu dai dẳng. Nàng nhổm dậy, chờ đợi bầy chim dầu rìu với chiếc mào sặc sỡ đang khệnh khạng kéo tới nhung nhúc. Đó là những con chim đã làm tổ ở cây tuyết tùng bị nhà vua sai đốn hạ; chúng đang than vãn việc chúng bị mất tổ. Chúng đã bay cả chặng đường để tìm một cái cây thay thế thì phát hiện ra Aset, và theo bản năng chúng kéo tới bên nàng, theo bản năng chúng hiểu rằng nỗi buồn đau của nàng cùng chung với chúng.
Lũ chim kêu bu bu bu và Aset đứng dậy. Bu bu bu. Chúng bay lên không trung và bay vòng bên trên nàng. Aset đi theo, và cả đoàn đi về phía đông, một đoàn dài liêu xiêu trên bờ cát, một vòng xoáỵ trôn ốc dưới khoảng trời.
Aset cảm thấy sự khẩn trương ở bầy chim và hi vọng thiêu đốt tim nàng. Những con chim này đang dẫn nàng đến với Usir. Liệu còn có thể là gì khác được? Mỗi ngày qua hi vọng của nàng lại tăng dần đến mức trái tim nàng chỉ chực vỡ toang.
Ở đó, nơi cuối đường, là cung điện lộng lẫy Kubna. Aset đi tha thẩn, nàng tin chắc chiếc hòm ở ngay bên kia bức tường, quanh đâu chỗ góc kia, ngay bên dưới mái nhà. Nhưng không thấy chiếc hòm đâu cả!
Không báo trước, không lựa lời, lí trí cuối cùng đã phủ một lớp muối đắng cay lên lưỡi Aset: Usir đã chết. Dù nàng có tìm thấy chiếc hòm hay không, chàng đã chết. Cứ như thể chàng ở ngay bên, với linh hồn mình nói cho nàng biết, buộc nàng phải hiểu ra.
Aset thấy một tảng đá to, nhẩn, ấm ở ngoài sân. Nàng ngồi xuống khóc. Nhưng đó là những giọt nước mắt chấp nhận và kiệt quệ. Tất cả đã kết thúc. Kết thúc thật rồi.
Nàng nghĩ thế.
Nhưng bên trong cung vua Kubna, những người hầu gái đang xì xào. Một người phụ nữ lạ rầu rĩ ngồi ngoài sân. Nàng gầy như một cây thông bị gió quăng quật, nhưng người ta vẫn thấy được vẻ đẹp ở hai gò má ấy, chiếc cổ cao ấy, đôi bàn tay khum vào nhau ấy. Các nữ tì lén nhìn nàng, ban đầu còn dè chừng, nhưng rồi, dần dần, họ lo cho nàng. Nỗi đau thương đè nặng người lạ mặt đến nỗi, nhìn nàng họ thấy thật đau lòng. Người phụ nữ này thật tuyệt vọng. Họ khẽ khàng lại gần nàng.
Aset quay lại, nàng nhìn thấy những gương mặt hoảng sợ và trái tim tổn thương của nàng hé mở. Suy cho cùng, nỗi đau thương của nàng đâu phải do họ. Nàng mỉm cười qua làn nước mắt và khẽ vỗ vỗ lên chỗ trống ở tảng đá bên cạnh mình. Những người hầu gái này chẳng khác nào những cô gái trẻ, ngây thơ và tươi mưỏi. Nàng bện mái tóc của họ và phả hương thơm lên làn da nõn nà của họ, và khi họ hỏi điều gì đã xảy ra với nàng, nàng dịu dàng chẳng nói điều gì. Các vị thần biết rằng con người không giỏi khi nói về cái chết.
Buổi trưa trôi qua và các cô hầu gái lần lượt bổ đi từng người một. Aset nắm hai tay vào nhau và ngồi đấy. Nàng không chờ đợi. Chẳng có gì để nàng đợi cả. Nàng ngồi nghỉ.
Không lâu sau các cô hầu gái lại xuất hiện, họ nắm lấy hai tay Aset và dẫn nàng đến trước nữ hoàng của họ, bà chân thành muốn gặp nàng.
Nữ hoàng ngưng một lát, ngón tay ấn xuống gò má nàng. "Ngươi không giống như những gì các thị nữ nói. Không một chút nào".
Aset chẳng nói chẳng rằng. Nàng thậm chí còn không biết chắc vì sao mình còn đứng đấy. Nàng đã có thể ra đi.
"Ngươi lớn tuổi hơn các thị nữ hằng thường của ta. Nhưng ta nhận ra giá trị thực của ngươi".
Aset ngẩn người chú ý. Giờ nàng mới nhìn sát nữ hoàng, nhìn cặp mắt mệt mỏi ấy, đôi gò má phẩng ấy. Liệu bà ta có thật sự biết mình đang ở trước một nữ thần?
"Ta thấy điều tốt ở ngươi. Ngươi có thể giúp ta theo cách ta cần giúp nhất." Nữ hoàng truyền cho Aset đi theo mình đến một phòng khác – một phòng trẻ con. Nữ hoàng bế cậu con trai mới sinh lên và đặt vào tay Aset. "Ngươi là bảo mẫu mới của hoàng tử".
Đứa bé mới xinh xắn làm sao! Đôi bàn tay bé xíu với những ngón taỵ mảnh mai và móng tay gần như trong suốt, đôi bàn chần bé xíu với gót chân co lại khi sờ vào. Cái miệng chúm lại khi Aset chúm chúm môi. Đôi mắt chớp chớp khi Aset chớp mắt nhìn.
Cái đầu tròn xoe tỏa mùi mật ong với những sợi tóc mịn hơn lông tơ. Đứa bé ấy là một sinh linh mới hoàn hảo làm sao. Ôi, Aset đã từng ao ước biết bao nàng và Usir có được một mụn con, vì khi đó nàng vẫn có thể yêu chàng qua đứa con ấy.
Nhưng giờ nàng đã có đủ tình yêu với đứa con này của nữ hoàng, vị hoàng tử hoàn hảo này. Aset tắm cho cậu, hát cho cậu và giữ cậu ngay bên mình. Nàng hít hà tai cậu. Nàng yêu chiều đứa trẻ.
Chẳng mấy chốc hoàng tử nhỏ xinh cũng yêu quý Aset.
Rồi một hôm, khi đứng dựa vào một chiếc cột to mà nàng vẫn quen đứng, Aset bỗng dưng nghĩ tới việc hoàng tử sẽ lớn lên, già đi và chết. Nghĩa là sẽ rời bỏ nàng, như Usir đã rời bỏ. Nàng không thể chịu đựng nỗi đau này một lần nữa.
Nàng cần phải tránh điều đó. Nàng sẽ trao sự bất tử cho đứa trẻ. Nàng có thể làm thế! Chỉ cần nói đúng lời thần chú và thanh tẩy bằng lửa.
Aset lượm các bụi tuyết tùng – có rất nhiều bụi cây này ở gần bên chiếc cột – và nhóm lửa đốt. Nàng đặt đứa trẻ vào đống lửa. Nó khóc thét lên. Tất cả những gì nàng có thể làm là kìm mình không kéo nó ra. Nàng không được kéo – không được kéo. Nàng hóa thành một con chim nhạn, bay quanh chiếc cột cao. Đứa trẻ gào thét. Nhưng chẳng còn lâu nữa, lời thần chú đã gần xong, Aset tiếp tục bay vòng quanh chiếc cột.
Hoàng hậu ào tới và giật đứa bé bị bỏng rộp khỏi đám tro hồng. Tiếng kêu của Aset xuyên thấu vũ trụ. Nữ hoàng đã sụp đổ hoàn toàn. Khi ấy, Aset trở lại nguyên hình và phát lộ mình là một nữ thần. Nàng lệnh cho mọi người bổ chiếc cột ra và đốt một đống lửa to để biến hoàng tử thành bất tử.
Khi những người thợ bổ chiếc cột ra, chiếc hòm có Usir bên trong rơi xuống. Nó vẫn còn được đóng đinh và đổ sáp để tránh cho không khí lọt vào. Aset than khóc nghẹn ngào tưởng như nghẹt thỏ.
Và nó đã làm cho hoàng tử nhỏ nghẹt thở. Cậu chết trên tay người mẹ.
Bi kịch chồng lên bi kịch.