Truyền thuyết Đèo mụ Dạ
Trước Tiếp theo
Đánh giá: 5/5 - 0 phiếu

Truyền thuyết Đèo mụ Dạ

Nước Văn Lang, từ thuở các vua Hùng mới dựng nghiệp, việc xác định biên giới cương vực với các nước láng giềng cũng đã được tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Truyền thuyết Đèo Mụ Dạ sau đây cũng có thể là một cách, và cũng khá độc đáo...

Ở phía tây nam của nước Văn Lang có nước Tiết Hầu, là một nước lớn, có rất nhiều dãy núi. Dân cư của nước ấy cũng khá đông đúc và có lắm của cải, nhất là các sản vật từ rừng.

Bên nước Văn Lang, đồi núi cũng khá nhiều, nhưng khác với nước Tiết Hầu, ngoài đồi núi còn có cả đồng bằng và các vùng ven biển.

Chỗ tiếp giáp giữa hai nước là một miền đồi núi, trong đó núi liền núi, sông liền sông, không thể phân biệt được. Vì vậy, việc tranh chấp đất đai vẫn cứ xảy ra liên miên.

Để chấm dứt chiến tranh, tin sứ hai nước đã nhiều lần thương lượng nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Bên này đưa ra điều kiện này thì bên kia lại đưa ra điều kiện kia, thế rồi to tiếng cãi nhau, không bên nào chịu phần thiệt.

Người dân nước Tiết Hầu vốn sống bằng nghề trồng lúa nương và săn bắn. Đất nước của họ đồi núi trập trùng, lắm khe nhiều suối và rừng cây rậm rạp. Từ lúc còn tấm bé cho đến tuổi trưởng thành, rồi tuổi già, hễ bước chân ra khỏi nhà ai cũng phải leo đèo lội suối. Vì vậy, cả đất nước của họ ai cũng đi bộ giỏi. Người nào người nấy đều có bàn chân, bắp chân to, rất chắc và khỏe, đi lại nhanh thoăn thoắt.

Họ rất tự hào về điều đó và tự coi không có nước nào sánh kịp.

Họ cũng thừa biết dân nước Văn Lang, một đất nước tuy có đồi núi nhưng không nhiều bằng họ, hơn nữa, đất nước này lại có nhiều đầm lầy, đồng ruộng. Chân chuyên lội trong bùn thì thử hỏi đi lại làm sao mà nhanh được?

Trong lần thương lượng cuối cùng, sứ giả Tiết Hầu đưa ra điều kiện: đi bộ để định cương vực giữa hai nước. Trái với các lần trước, lần này sứ giả Văn Lang vui vẻ nhận lời, vì coi đó là danh dự quốc gia cần phải bảo vệ.

Điều kiện đặt ra cho cuộc thi: mỗi nước cử ra một người đi bộ giỏi nhất, tùy theo cách lựa chọn của mình. Hai người xuất phát từ hai kinh đô của mỗi nước, vào cùng một ngày, một giờ, và đi chéo chiều nhau theo hai con đường đã định sẵn, đến vùng ranh giới nơi đang xảy ra tranh chấp. Chỗ gặp nhau sẽ là địa giới của mỗi nước. Thời gian để chuẩn bị là một tháng, và ở mỗi bên sẽ đặt những trạm kiểm soát chung để phòng ngừa sự gian lận.

Ở bên nước Tiết Hầu, người ta náo nức chuẩn bị cho cuộc thi, coi như đã nắm chắc phần thắng. Họ rất dễ dàng tìm ra một người đi bộ giỏi nhất trong số những người đi bộ giỏi của cả nước. Những cuộc thi ở cấp huyện, cấp phủ, rồi cuối cùng ở cấp quốc gia, thật tưng bừng náo nhiệt.

Còn ở bên phía Văn Lang, vua Hùng đã truyền lệnh đi khắp cả nước, các tay thiện xạ lừng danh đã về tụ tập tại kinh đô để thi thố tài năng, mà nhà vua vẫn cứ lắc đầu chưa chấp nhận. Thời gian chuẩn bị cho cuộc thi cũng chỉ còn mấy ngày, nhưng nhà vua vẫn phái sứ giả đi tiếp, đến những nơi xa xôi hẻo lánh nhất, để tìm cho ra một người đi bộ thật xứng đáng với tài danh siêu đẳng.

Trong dân chúng, quả nhiên đã xuất hiện một người như thế, không để phụ lòng mong mỏi của nhà vua.

Đó là khi sứ giả đến truyền tin tại một làng xa xôi, đèo heo hút gió, thì có một người đàn bà cực kỳ khỏe mạnh và nhanh nhẹn đã ra nhận lời.

Bà có vóc dáng cao gấp rưỡi người bình thường, đôi bắp chân thon dài, lại cực kỳ săn chắc, và khi bước đi thì tựa như đang bay trên mặt đất. Bà sống một mình, trong một ngôi nhà nhỏ ở ven rừng, chuyên vào núi kiếm củi rồi gánh đi chợ bán. Đã nhiều lần bà gặp thú dữ, nhưng chỉ cần vài gậy đánh trúng đầu con thú là chúng phải bỏ chạy. Hoặc cũng nhiều khi bà gặp lũ quét, thế là chỉ cần vài bước nhảy, bà đã thoát ra khỏi cơn lũ an toàn.

Tính tình bà lại hết sức hào hiệp, độ lượng. Thấy ai làm điều sai trái, bà ngăn cản. Nếu có hành vi bất thiện, bà trừng trị. Còn ai gặp rủi ro hoặc khốn khó thì bà đều giúp đỡ, cưu mang.

Chưa có ai xứng đôi vừa lứa với bà, nên bà vẫn ở một mình, vui vẻ làm nghề kiếm củi. Tuy vậy, ai cũng kính trọng bà, tôn sùng bà như một vị thủ lĩnh, và mọi việc quan trọng đều đến để hỏi ý kiến của bà.

Để biểu thị cho lòng kính trọng đó, mọi người trong vùng đều gọi bà là Mụ Dạ (1).

Sứ giả hết sức vui mừng, vội đưa ngay Mụ Dạ về kinh đô. Sau lễ triều kiến, chỉ cần Mụ Dạ đi vài bước thì từ nhà vua cho đến các đại thần và mọi người có mặt đều hết sức hân hoan, phấn chấn.

Theo lệnh nhà vua, suốt ngày đêm hôm ấy, nội cung phải lo cơm nước và chuẩn bị các thứ cho Mụ Dạ, vì sáng sớm mai đã là giờ khởi hành. Tuy nhiên, đấy chỉ là do nhà vua trọng thị nên đã ra lệnh như thế, chứ thực ra, Mụ Dạ cũng chẳng cần gì nhiều. Bà chuẩn bị qua loa rồi đi ngủ thật sớm để lấy sức, vậy thôi.

Khi những chú gà trống trong kinh thành thi nhau gáy đổ hồi, báo hiệu một ngày mới, thì Mụ Dạ bật dậy. Trong chớp mắt, bà chải đầu, vấn tóc, súc miệng, rồi ăn một chút lót dạ, xong là bước lên đường ngay. Lúc ấy, có đông đủ nhà vua, triều thần Văn Lang và đại diện triều đình Tiết Hầu cũng đều chứng kiến.

Mụ Dạ đi nhanh thoăn thoắt, như gió thổi chim bay. Chỉ một thoáng đã biến ra ngoài kinh thành, rồi một thoáng nữa lại biến ngay vào làng mạc, đồng ruộng. Một chặng đường ngắn của bà là vài khúc sông, mấy cánh đồng. Một chặng đường dài của bà là một vùng trung du và nhiều cánh rừng bát ngát...

Ở các trạm kiểm soát, đại diện của triều đình Tiết Hầu xanh xám mặt mày, lắc đầu thè lưỡi thán phục. Còn Mụ Dạ thì vẫn thản nhiên, bước đi lại càng nhanh thoăn thoắt. Núi cao, rừng thẳm, dốc ngắn, dốc dài,... tất thảy đều như bỗng nhiên lùi lại sau mỗi bước chân của bà. Chưa hết buổi sáng, bà đã vượt được cả hàng ngàn dặm đất.

Đến giữa trưa, bàn chân bà đã đặt trên đỉnh dãy núi Giăng Màn. Tạm dừng lại ăn nắm cơm lót dạ và uống vài ngụm nước, xong, bà lại nhanh nhẹn bước tiếp. Chẳng mấy chốc, bà đã có mặt ở con đèo phía nam của dãy núi này. Nhưng vừa lúc ấy, người của vua nước Tiết Hầu cũng vừa xuất hiện.

Cuộc thi kết thúc, và từ đó trở đi, ngọn đèo đã trở thành biên giới của hai nước.

Kể ra, người của nước Tiết Hầu cũng xứng đáng là người đi bộ giỏi nhất của đất nước họ. Tuy nhiên, so với mụ Dạ thì cũng chỉ bằng già một phần nửa. Quãng đường từ kinh đô hai nước đến chỗ giáp ranh đã chứng minh cho điều đó.

Để mãi mãi ghi nhớ công lao của người đàn bà tài năng đã làm vẻ vang cho đất nước, theo lệnh của vua Hùng và cũng là ý nguyện của toàn dân, ngọn đèo ranh giới ấy được mang tên là Đèo Mụ Dạ.

Đó cũng là ranh giới giữa nước ta và nước Lào ngày nay, thuộc địa phận phía Tây của tỉnh Nghệ An bây giờ.


(1)   “Dạ” là tiếng Việt cổ, để chỉ người đàn bà được kính trọng. Còn “mụ” chỉ là tiếng địa phương để gọi “bà” chứ không phải là ý khinh rẻ.

Xem ngay truyện hay khác

  1. Chó sói và bảy chú dê con - Truyện Cổ Grimm Hay Nhất Cho Bé Trước Giờ Ngủ (Tạo lúc: 05/03/2015)
  2. Chú mèo đi hia - truyện cổ tích Grimm kinh điển và đầy hấp dẫn (Tạo lúc: 06/03/2015)
  3. Những bông hoa của cô bé Ida (Tạo lúc: 06/03/2015)
  4. Sự tích mùa xuân (Tạo lúc: 08/03/2015)
  5. Người da gấu (Tạo lúc: 12/03/2015)
  6. Mười hai hoàng tử (Tạo lúc: 14/03/2015)
  7. Sự tích con muỗi (Tạo lúc: 16/03/2015)
  8. Truyện anh khờ được kiện (Tạo lúc: 16/03/2015)
  9. Sự tích con dã tràng (Tạo lúc: 17/03/2015)
  10. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ (Tạo lúc: 17/03/2015)

Bình luận hoặc góp ý về nội dung

Main:
Secondary:
Outline:
Footer:
Menu: